Nguồn: Nathan Attrill, “Digital siege puts Taiwan’s resilience to the test”, The Strategist, 13/08/2025
Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)
Xung đột kéo dài nhất giữa Trung Quốc và Đài Loan không diễn ra trên biển hay trên không mà là trên không gian mạng điện toán.
Trong hai năm qua, Trung Quốc đã tăng cường một chiến dịch chiến tranh mạng toàn diện chống lại Đài Loan. Chiến dịch này dai dẳng, tinh vi về mặt kỹ thuật và được cân nhắc kỹ lưỡng về mặt chánh trị. Nó kết hợp gián điệp được nhà nước hậu thuẫn, các hoạt động tâm lý, xâm nhập cơ sở hạ tầng quan trọng và thông tin sai lệch, đồng thời được tích hợp sâu rộng vào nỗ lực rộng lớn hơn của Bắc Kinh nhằm gây bất ổn cho Đài Loan bằng các hành động dưới ngưỡng chiến tranh.
Các hoạt động mạng của Trung Quốc chống lại Đài Loan rất rộng lớn và được phối hợp có chiến lược. Các nhóm xâm nhập nổi bật của Trung Quốc có thể ẩn nấp trong mạng lưới đã tiến hành các chiến dịch mạng dài hạn chống lại các cơ quan chánh phủ, cơ sở hạ tầng quan trọng và các tổ chức khu vực tư nhân của Đài Loan. Các chiến dịch này không chỉ nhằm mục đích thu thập thông tin tình báo, nhiều chiến dịch cài đặt phần mềm độc hại và thiết lập quyền truy cập lâu dài, có thể được tận dụng trong trường hợp xảy ra xung đột quân sự.
Cục An ninh Quốc gia Đài Loan báo cáo hơn 2,4 triệu nỗ lực xâm nhập mỗi ngày nhắm vào các mạng lưới chánh phủ vào năm 2024 – hơn gấp đôi so với năm trước. Nhiều trong số này được cho là do các tác nhân Trung Quốc tìm cách đánh cắp dữ liệu nhạy cảm và chuẩn bị cho tình huống phá hoại các hệ thống liên lạc, năng lượng và cơ sở hạ tầng quân sự. Các viên chức Mỹ đã mô tả hoạt động này là “chuẩn bị cho chiến trường”, theo đó Trung Quốc đang tìm cách để có thể phá vỡ hệ thống chỉ huy, kiểm soát, hậu cần và các dịch vụ công của Đài Loan ngay khi một cuộc xung đột nổ ra.
Chiến dịch này mở rộng ra ngoài hoạt động gián điệp mạng thông thường. Bắc Kinh đã mở rộng đáng kể việc xử dụng chiến tranh thông tin. Theo Cục An ninh Quốc gia, hơn 2,15 triệu chiến dịch thông tin sai lệch nhắm vào Đài Loan đã được ghi nhận vào năm 2024, tăng gần gấp đôi so với năm trước. Những nỗ lực này nhằm mục đích làm suy yếu lòng tin vào các thể chế dân chủ của Đài Loan, làm suy yếu tinh thần công chúng và khuếch đại các câu chuyện phục vụ lợi ích của Bắc Kinh – chẳng hạn như miêu tả Mỹ là một đối tác an ninh không đáng tin cậy hoặc miêu tả quân đội Đài Loan là không hiệu quả.
Các phương pháp được xử dụng rất đa dạng. Chúng bao gồm các bản deepfake do AI tạo ra, các trang web tin tức giả mạo, các tài khoản mạng xã hội bị chiếm đoạt và các trang trại nội dung. Nhiều chiến dịch được thiết kế để can thiệp vào chánh trị nội bộ của Đài Loan. Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024, một làn sóng phối hợp các tuyên bố sai sự thật – từ các vụ bê bối bịa đặt đến các thuyết âm mưu về sự can thiệp của nước ngoài – đã lan truyền trên Facebook, TikTok, YouTube và Line, một nền tảng nhắn tin của Nhật Bổn. Các chuyên gia phân tách cũng đã quan sát thấy sự gia tăng đáng kể thông tin sai lệch nhắm vào khán giả trẻ Đài Loan thông qua các nền tảng và nội dung các đoạn phim ngắn của Trung Quốc.
Đài Loan đang chứng kiến sự gia tăng các cuộc tấn công mạng liên quan đến các sự kiện quan trọng hoặc quan hệ xuyên eo biển. Theo dữ liệu từ Bộ Kỹ thuật số Đài Loan, tháng Bảy năm 2024 đánh dấu khối lượng sự cố an ninh mạng được ghi nhận hàng tháng cao nhất đối với các cơ quan chánh phủ, trùng với các cuộc tập trận quân sự Hán Quang của Đài Loan. Các cuộc tấn công trong tháng đó đã khai thác các phần mềm lỗi thời, biện pháp kiểm soát truy cập lỏng lẻo và lỗi mã hóa.
Các hoạt động an ninh mạng đã tăng vọt trở lại vào tháng Chín năm 2024 sau khi Tổng thống Lại Thanh Đức công khai gợi ý rằng, xét theo các xung đột biên giới trong lịch sử, đáng lẽ Trung Quốc chứ không phải Đài Loan mới là bên nên tranh chấp lãnh thổ với Nga. Ngay sau đó, nhóm tin tặc thân Nga NoName057 dường như đã trả đũa bằng cách tấn công từ chối dịch vụ (DDoS) vào các trang web của chánh phủ Đài Loan.
Trong khi đó, sự gia tăng hoạt động của tin tặc vào tháng Tư một phần được cho là do trận động đất ngày 3 tháng Tư, làm gián đoạn việc truy cập mạng và bộc lộ các lỗ hổng tiềm ẩn. Một số cơ quan chánh phủ đã báo cáo về các trường hợp nhiễm mã độc sau sự cố, cho thấy các tác nhân thù địch có thể đã hẹn giờ hoặc điều chỉnh hoạt động của chúng để lợi dụng sự hỗn loạn và tình huống sự giám sát bị giảm sút trong nỗ lực ứng phó thảm họa.
Đài Loan đã phản ứng quyết liệt, đa diện và ngày càng được thể chế hóa. Nhận thức được quy mô của mối đe dọa, chá
nh quyền của ông Lại đã định nghĩa lại an ninh mạng là một vấn đề quốc phòng. Một Chiến lược An ninh Mạng Quốc gia mới, được công bố vào tháng Tư năm 2025, đã vạch ra một lập trường chủ động hơn, bao gồm kiến trúc không tin cậy, mã hóa chống lượng tử và việc thành lập một Trung tâm An ninh Mạng Quốc gia Chung.
Cách ứng xử của Đài Loan cũng đáng chú ý vì nhấn mạnh tính minh bạch và sự tham gia của xã hội dân sự. Các tổ chức kiểm tra thông tin, chẳng hạn như Trung tâm Kiểm tra Thông tin Đài Loan và Cofacts, chống lại thông tin sai lệch trực tuyến, trong khi các chiến dịch nâng cao kiến thức kỹ thuật số nhằm xây dựng năng lực chống chịu về nhận thức. Những nỗ lực này được tăng cường bởi sự hợp tác tự nguyện với các nền tảng như Meta và Line để gắn cờ và bác bỏ nội dung sai sự thật trong thời gian thực. Thay vì áp dụng các mô hình kiểm duyệt nặng nề, Đài Loan dựa vào sự cởi mở, lòng tin của công chúng và các biện pháp phòng thủ có sự tham gia để chống lại chiến tranh nhận thức.
Hợp tác quốc tế đã tăng cường hơn nữa năng lực phục hồi mạng của Đài Loan. Đài Loan thường xuyên chia xẻ thông tin tình báo với Mỹ, và các cơ quan an ninh mạng của nước này duy trì hợp tác thầm lặng nhưng tích cực với các đồng minh khác.
Kinh nghiệm của Đài Loan đã định vị nước này trở thành một hình mẫu về sức phục hồi dân chủ trước áp lực của một mạng điện toán độc đoán. Các chánh sách, thể chế và sáng kiến xã hội dân sự của nước này ngày càng được các chánh phủ và các tổ chức nghiên cứu trên toàn thế giới nghiên cứu. Tuy nhiên, mối đe dọa đang gia tăng. Các hoạt động mạng của Bắc Kinh đang trở nên thường xuyên hơn, tinh vi hơn và gắn bó chặt chẽ hơn với các mục tiêu chánh trị và quân sự rộng lớn hơn của nước này. Khi Tập Cận Bình thúc đẩy mục tiêu đã nêu của mình là “giải quyết” vấn đề Đài Loan vào năm 2027, các biện pháp phòng thủ kỹ thuật số của Đài Loan có thể sẽ phải đối mặt với những thử thách lớn hơn nữa.
Nathan Attrill là chuyên gia phân tách cấp cao trong chương trình An ninh mạng, Kỹ nghệ và An ninh của ASPI.