Nguồn: Gloria Dickie, “The Rise of Durian Diplomacy”, Foreign Policy, 17/10/2025

 

Biên dịch: Viên Đăng Huy (nghiencuuquocte.org)

 

 

Có một loại quả mà chỉ cần ngửi hương thơm là đã biết nó là quả gì mà không cần thấy. Hương thơm nồng nàn của quả này len lỏi qua các con hẻm, vượt qua các quán cà phê và quầy bánh chiên ở khu Chinatown ở Thủ đô Kuala Lumpur, dẫn đến chỗ người bán trái cây đang đeo găng khéo léo bóc tách lớp vỏ đầy gai. Hơn chục du khách Trung Quốc đang xếp hàng chờ thưởng thức loại quả to bằng quả bóng này, được bày bán trong gói giấy bóng kính hoặc chế biến thành kem tươi và bánh su.

 

Sầu riêng, loại quả gây nhiều tranh cãi, thường bị Tây phương chê bai vì mùi nồng như hành và có độ béo rất ngậy, từ lâu đã là món ăn khoái khẩu ở Đông Nam Á. Chỉ trong những năm gần đây, nó mới nổi lên như một hiện tượng ẩm thực ở Trung Quốc, nơi hiện tiêu thụ hơn 1,5 triệu tấn loại quả này mỗi năm, với mức giá bán khoảng 25 USD cho một quả sầu riêng lớn. Hầu hết số đó được vận chuyển từ các nước láng giềng Đông Nam Á của Trung Quốc.

 

Khi sự thèm muốn sầu riêng của người Trung Quốc tăng lên, thì sức hấp dẫn của nó như một cầu nối giữa văn hóa và chánh trị cũng tăng theo. Tất cả sầu riêng tươi đến Trung Quốc trước đây đều đến từ Thái Lan, quốc gia xuất cảng ba phần tư sản lượng thu hoạch sầu riêng ra nước ngoài. Thái Lan vẫn là đối tác thương mại sầu riêng lớn nhất của Trung Quốc, với khoảng 4 tỷ USD xuất cảng mỗi năm, nhưng thị phần của họ đang giảm nhanh chóng khi các quốc gia mới tham gia. Trong bốn năm qua, Bắc Kinh đã ký hàng loạt thỏa thuận nhập cảng sầu riêng với các nước trong khu vực với sách lược thu hút đối tác trị giá hàng tỷ USD này đã được một số chuyên gia chánh trị gọi là “ngoại giao sầu riêng”.

 

Vào tháng 8/2025, Trung Quốc đã nhận lô sầu riêng tươi đầu tiên từ Campuchia. Việc này diễn ra sau khi có thỏa thuận nhập cảng sầu riêng đông lạnh từ Indonesia, nước đã khai triển một dự án phát triển trồng trọt nhằm đẩy mạnh sản xuất loại quả này. Mã Lai Á (Malaysia), nước đã xuất cảng sầu riêng nguyên quả đông lạnh sang Trung Quốc từ năm 2019, đã tham gia vào trò chơi xuất cảng tươi vào năm 2024. Phi Luật Tân (Philippines) đã ký một thỏa thuận vào năm 2023 để xuất cảng sầu riêng tươi sang Trung Quốc sau chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Ferdinand Marcos Jr. nhằm tăng cường hợp tác nông nghiệp. Và vào năm 2022, Việt Nam bắt đầu xuất cảng sầu riêng của mình lên phía bắc, trở thành nước cung cấp lớn thứ hai của Trung Quốc, với kim ngạch xuất cảng đạt gần 3 tỷ USD vào năm ngoái. Ông Tạ Khản Khản, giáo sư nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Bắc Kinh ở Trung Quốc, cho biết “Sầu riêng phản ánh rất rõ những gì đang xảy ra với giới lãnh đạo và quan hệ giữa các quốc gia”.

 

Theo truyền thống, Trung Quốc vẫn giữ quan hệ thân thiết hơn với các quốc gia Đông Nam Á lục địa như Campuchia, Lào và Myanmar, ông Tạ cho biết. (Lào và Myanmar đang hy vọng sẽ sớm xuất cảng sầu riêng của họ sang Trung Quốc nhưng vẫn chưa có giấy phép xuất cảng). Việt Nam từ lâu đã là một ngoại lệ đối với xu hướng này, do những bất bình lịch sử và tranh chấp ở Biển Đông, điều cũng gây căng thẳng tương tự trong quan hệ của Trung Quốc với Phi Luật Tân. Tuy nhiên, Trung Quốc ngày càng xử dụng các thỏa thuận sầu riêng để làm dịu quan hệ. Mùa hè này, Trung Quốc đã mời cả hai nước, cùng với các thành viên khác của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đến Lễ hội Sầu riêng ASEAN-Trung Quốc lần đầu tiên tại Bắc Kinh.

 

Sự cạnh tranh của Trung Quốc với Mỹ có thể giúp giải thích tại sao ngày càng có nhiều sầu riêng vượt qua biên giới vào Trung Quốc hơn bao giờ hết. Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump tái tổ chức thương mại toàn cầu và rút khỏi các thể chế quốc tế theo chánh sách “Nước Mỹ trên hết” của ông đã tạo ra một cơ hội để Trung Quốc kết nạp đồng minh và củng cố quan hệ với các nước láng giềng. Tình yêu chung với sầu riêng là một cách để củng cố quan hệ. Ông Tạ nói, “Trung Quốc hiện đang cố gắng thể hiện mình là một cường quốc lớn có trách nhiệm và tích cực hợp tác với nhiều đối tác Đông Nam Á”.

 

Nếu truyền thuyết là đúng, thì sầu riêng đã là nguồn cơn của các mưu đồ chánh trị kể từ khi nó được tạo ra. Một câu chuyện dân gian Phi Luật Tân kể về một vị vua tìm đến một ẩn sĩ khôn ngoan để được giúp đỡ giành lấy tình yêu của cô dâu. Vị ẩn sĩ yêu cầu nhà Vua mang đến cho ông ba vật phẩm: trứng của chim tabon đen, 12 muỗng sữa tươi từ một con trâu nước và mật hoa từ cây mộng tưởng. Ông cẩn thận trộn các nguyên liệu này và hướng dẫn nhà Vua trồng chúng trong vườn hoàng gia. Sáng hôm sau, một cái cây đẹp đẽ, thơm lừng xuất hiện với quả ngọt làm say đắm cô dâu trẻ. Vui mừng, nhà Vua mở tiệc thiết đãi vương quốc của mình nhưng lại quên mời vị ẩn sĩ. Trong cơn thịnh nộ, ẩn sĩ đã nguyền rủa quả của cây với một mùi hôi thối và vỏ mọc đầy gai.

 

Giải thích hợp lý hơn cho sự xuất hiện của sầu riêng là lớp vỏ gai của nó bảo vệ nó khỏi những loài động vật háu đói. Dù vậy, sầu riêng vẫn giữ vững vị thế hoàng gia của mình trên khắp Đông Nam Á, nơi nó được tôn vinh là “vua của các loại trái cây”.

 

Tuy nhiên, khi rời xa các khu rừng nguyên sinh trên đảo Borneo và Sumatra, sầu riêng lại không được mô tả một cách hoa mỹ đến thế. Niccolò de’ Conti, một thương gia người Venice vào thế kỷ 15 đã ghi lại một trong những tài liệu tham khảo đầu tiên của Âu châu về sầu riêng trong các chuyến du hành của mình, ông nhắc nhở rằng nó giống “bơ đặc” và có “mùi gây buồn nôn”. Ngay cả điều đó cũng có thể được coi là lời khen theo một số tiêu chuẩn. Mục chú giải của từ điển Hobson-Jobson năm 1903, được xử dụng trong thời kỳ Anh cai trị ở Ấn Độ, trích lời một cựu quan chức thuộc địa đã so sánh sầu riêng với “xác thối trong bánh custard”.

 

Sự ghét bỏ của các nước Tây phương đối với sầu riêng đồng nghĩa với việc, ít nhất là lúc này, việc xuất cảng ồ ạt loại quả này sang Mỹ hay Âu châu sẽ không giúp ích gì cho các mối quan hệ chánh trị. Thật vậy, nhiều phòng khách sạn ở các thành phố Đông Nam Á, từ Bangkok (Vọng Các) đến Singapore (Tân Gia Ba), cấm sầu riêng một cách rõ ràng để bảo vệ các giác quan tinh tế của du khách quốc tế.

 

Nhưng đối với Trung Quốc, sầu riêng là một món ngon tiện lợi. Việc thỏa mãn nhu cầu tiêu thụ trong nước có thể củng cố các liên minh khu vực.

 

Theo Sam Chapple-Sokol, giảng viên tại Viện Thực phẩm Toàn cầu thuộc Đại học George Washington, việc dùng ẩm thực để phục vụ cho mục đích chánh trị không phải là điều mới mẻ. Ông cho rằng hoạt động này thuộc phạm vi của ngoại giao ẩm thực, một hiện tượng đã có từ hàng nghìn năm trước. Ông nói, “Hãy hình dung hai dân tộc cổ đại gặp gỡ nhau, họ sẽ trò chuyện bên đống lửa, và thường thì thức ăn luôn hiện diện quanh đống lửa đó”.

 

Qua nhiều thế kỷ, loại hình ngoại giao này đã trở nên tinh tế hơn, bao gồm tiệc chiêu đãi cấp nhà nước và các món ăn đặc biệt. Vào những năm 1800, đầu bếp Antonin Carême đã đi cùng phái đoàn Pháp đến các cuộc đàm phán, đặt tên các phát minh ẩm thực của mình theo tên các chánh trị gia khác nhau, được cho là đã tạo ra món Poularde Albufera và Nesselrode pudding. Trong những thập niên gần đây, các quốc gia Đông Nam Á đã đặc biệt thành thạo trong việc xử dụng sức mạnh ẩm thực này. Ông Chapple-Sokol nhắc nhở rằng sự phổ biến của các nhà hàng Thái Lan trên khắp thế giới không phải là một sự ngẫu nhiên đơn thuần, mà là một sách lược có chủ ý của chánh phủ.

 

Ông nói thêm rằng ngoại giao sầu riêng không chỉ được thấy trong các thỏa thuận thương mại mà còn trong các buổi giới thiệu ẩm thực phô trương nhằm thu hút các quan chức đến thăm. Năm 2022, sau bữa trưa cấp nhà nước giữa Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị và Thủ tướng Mã Lai Á khi đó là Ismail Sabri Yaakob, ông Vương Nghị đã ca ngợi món bánh phô mai ông vừa dùng được làm bằng Musang King (một trong những giống sầu riêng phổ biến nhất), nhắc nhở rằng ông đã sẵn sàng nhập cảng thêm trái cây nhiệt đới và dầu cọ từ nước này.

 

Trong trường hợp ngoại giao sầu riêng, ông Chapple-Sokol đặt câu hỏi liệu Trung Quốc có phải là động lực chính hay không. Ông cho rằng ngoại giao ẩm thực thường gắn liền với các cường quốc tầm trung. Mã Lai Á, cách riêng, đã là một nhân tố lớn xử dụng hình thức quyền lực mềm này trong suốt thập niên qua. Ông nói, “Các quốc gia có thể hưởng lợi nhiều nhất từ nó là Thái Lan, Peru (Bí Lỗ), Mễ Tây Cơ. Đó là những quốc gia nhỏ hơn khối BRICS, nhưng đủ lớn mạnh để thúc đẩy và duy trì một hình thức ngoại giao như thế này. Có lẽ họ không có sức mạnh quân sự hay GDP và sức mạnh kinh tế, nhưng họ có thứ gì đó thực sự mạnh mẽ để cung cấp cho thế giới về ẩm thực, văn hóa, lịch sử, con người của họ”.

 

Ngày càng nhiều các cường quốc tầm trung đó đang xử dụng ngoại giao sầu riêng để xây dựng cầu nối với nhau, loại bỏ các cường quốc lớn hơn. Vào tháng 2/2025, Mã Lai Á đã tổ chức một sự kiện “ngoại giao sầu riêng” tại đại sứ quán ở Seoul của họ, sau một buổi tiếp tân tương tự ở Tehran vào năm 2024. Phát biểu trước khách mời, Mohd Zamruni Khalid, đại sứ Mã Lai Á tại Nam Hàn, đã thừa nhận tiện ích của sầu riêng đối với nghệ thuật quản lý nhà nước. “Hãy nhớ rằng ngoại giao không chỉ là những cuộc gặp gỡ chánh thức và các cuộc họp cấp cao. Nó còn là niềm vui đơn giản của việc chia sẻ một bữa ăn, trao đổi những câu chuyện và xây dựng các kết nối”, ông Khalid nói. “Hôm nay, hãy để sầu riêng là biểu tượng cho cam kết chung của chúng ta về một tương lai tươi sáng hơn, hợp tác hơn”.

 

Mã Lai Á cho biết họ hiện đang nhìn ra ngoài Á châu, nhắm đến Peru (Bí Lỗ) như một thị trường xuất cảng sầu riêng trong tương lai.

 

Tuy nhiên, việc ngoại giao sầu riêng có tiếp tục với tốc độ nhanh hay không, không chỉ phụ thuộc vào những cơn biến động chánh trị mà còn cả điều kiện thời cuộc. Biến đổi khí hậu là một mối đe dọa ngày càng tăng đối với nông dân trồng sầu riêng, và thị phần của Thái Lan đã giảm từ 68% xuống còn 57% trong khoảng thời gian từ năm 2023 đến 2024 một phần do sản lượng giảm do nắng nóng cực độ. Tại Việt Nam, nơi Đồng bằng sông Cửu Long chiếm khoảng một nửa tổng sản lượng sầu riêng của cả nước, hạn hán năm ngoái đã đẩy nước mặn xâm nhập vào các khu bảo tồn nước ngọt của đồng bằng, và vào các cánh đồng, làm chậm sản xuất sầu riêng. Do đó, việc giải quyết vấn đề gia tăng khí thải nhà kính sẽ phải là ưu tiên hàng đầu nếu muốn duy trì sự bùng nổ của thị trường sầu riêng.

 

Gloria Dickie là nhà báo tác nghiệp tại Bangkok và là tác giả cuốn Eight Bears: Mythic Past and Imperiled Future.

 

 

(Dan Viet phụ đính)