Hình ảnh thủy thủ Hải quân Hoa Kỳ trên hàng không mẫu hạm ở Biển Đông, tháng Sáu năm 2025. Matthew C. Wolf / Hải quân Hoa Kỳ / Reuters
Nguồn: Kurt M. Campbell, “The U.S.-China Crisis Waiting to Happen,” Foreign Affairs, 06/10/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org)
(Dan Viet phụ đính)
Việc Bắc Kinh chần chừ hợp tác với quân đội Mỹ chưa bao giờ nguy hiểm hơn thế.
Ngày 24/10/2023, một oanh tạc cơ B-52 của Không quân Mỹ đang thực hiện nhiệm vụ ban đêm trong không phận quốc tế trên Biển Đông thì bất ngờ bị một tiêm kích cơ của Trung Quốc chặn lại. Sau một loạt các động tác cơ động tốc độ cao nguy hiểm, phi cơTrung Quốc đã bay cách oanh tạc cơ Mỹ chỉ 3m, gây nguy hiểm cho cả phi cơ và phi hành đoàn. Sự việc này xảy ra ngay sau một sự cố khác vào tháng 06/2023 khi USS Chung-Hoon, một khu trục hạm của Hải quân Mỹ, đang di chuyển qua Eo biển Đài Loan thì bị một chiến hạm của Trung Quốc vượt lên ở phía mạn trái với tốc độ cao. Sau đó, chiến hạm Trung Quốc đột ngột đổi hướng và cắt ngang mũi tàu Mỹ ở khoảng cách 137m, buộc Chung-Hoon phải nhanh chóng giảm tốc để tránh bị đụng. Chiến hạm của Trung Quốc trước đó đã phớt lờ các nỗ lực liên lạc giữa tàu với tàu nhiều lần, và vi phạm các quy trình vận hành tiêu chuẩn cho các cuộc chạm trán mặt đối mặt trên biển quốc tế.
Đây chỉ là hai lần suýt xảy ra xung đột trong những năm gần đây giữa quân đội Mỹ và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Dù các sách lược gia và viên chức hoạch định quân sự Mỹ đang tập trung vào việc chuẩn bị cho các hành động quân sự có chủ đích của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là liên quan đến Đài Loan, nhưng những lần suýt xảy ra xung đột này cũng gây lo ngại đáng kể cho giới phân tách Mỹ, rằng một tai nạn hoặc hiểu lầm giữa quân đội Mỹ và Quân Giải phóng Nhân dân có thể kéo hai nước vào một cuộc xung đột mà cả hai bên đều không mong muốn.
Những quan ngại này không phải là mới. Suốt hàng chục năm qua, Mỹ đã cố gắng đặt ra những rào cản cho quan hệ quân sự với Trung Quốc, thường xuyên mượn chiến thuật mà họ từng xử dụng để duy trì sự ổn định của quan hệ Mỹ-Xô trong Chiến tranh Lạnh. Trong những năm 1990, khi Hoa Thịnh Đốn vẫn còn nắm giữ lợi thế quân sự vượt trội so với Bắc Kinh, các sách lược gia Mỹ chọn tập trung vào việc trấn an, chẳng hạn thông qua đối thoại quân sự và các giao thức liên lạc. Ngày nay, khi quân đội Trung Quốc gia tăng sự hiện diện ở Eo biển Đài Loan và Biển Đông, và khi căng thẳng Mỹ-Trung âm ỉ lan tỏa từ thương mại đến công nghệ, các viên chức Mỹ chuyển sang tập trung hơn vào các biện pháp xây dựng lòng tin, nhằm tạo ra năng lực dự đoán tốt hơn trong các chiến dịch quân sự, cũng như quản lý truyền thông trong giai đoạn khủng hoảng để bảo đảm rằng một sự cố nhỏ không leo thang thành một cuộc chiến toàn diện. “Trung Quốc là lực lượng quân sự phát triển nhanh nhất, và là cường quốc nguyên tử phát triển nhanh nhất, trên thế giới. Còn Mỹ có lực lượng quân sự lớn nhất thế giới,” Hạ nghị sĩ Mỹ Adam Smith phát biểu khi đến thăm Bắc Kinh tháng trước. “Sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta không thường xuyên trao đổi về năng lực và ý định của mình.”
Nhưng bất chấp những nỗ lực liên tục từ phía các viên chức Mỹ nhằm cải thiện liên lạc quân sự, phía Trung Quốc vẫn không chịu thiết lập và hệ thống hóa ngay cả những quy tắc cơ bản. Dù lý do cho thái độ mơ hồ của Bắc Kinh đã thay đổi, nhưng điều vẫn giữ nguyên là sự hoài nghi sâu sắc: liệu các sáng kiến do Mỹ dẫn đầu có thúc đẩy lợi ích của Trung Quốc hay không? Không dễ để Hoa Thịnh Đốn vượt qua những nghi ngờ lâu dài như vậy. Nhưng giờ đây, khi năng lực quân sự của Mỹ và Trung Quốc được cho là ngang nhau và nguy cơ leo thang căng thẳng đã gia tăng, các viên chức Mỹ đang tìm cách tái lập quan hệ ngoại giao quân sự Mỹ-Trung cần phải hiểu rõ thái độ hoài nghi này – và làm những gì có thể để vượt qua nó.
SÁCH LƯỢC THỜI LIÊN XÔ
Ngoại giao quân sự Mỹ-Xô trong Chiến tranh Lạnh từ lâu đã trở thành hình mẫu cho quan hệ thành công giữa các lực lượng võ trang đối địch. Dù là những đối thủ nguyên tử, hai quốc gia vẫn phát triển các quan hệ quân sự đáng kể trong giai đoạn cuối của Chiến tranh Lạnh. Một ví dụ là Hiệp định về Các Sự cố trên Biển năm 1972 nhằm ngăn va chạm tàu thuyền và giảm thiểu nguy cơ leo thang căng thẳng bất ngờ trên biển. Tương tự là Hiệp định về Phòng ngừa Các Sự cố Quân sự Nguy hiểm năm 1989 nhằm hạn chế việc xử dụng một số võ khí nhất định, chẳng hạn như tia laser có thể gây mù nếu ngắm bắn một cách liều lĩnh. Những thỏa thuận này không phải là giải pháp tối ưu – lực lượng Mỹ và Liên Xô vẫn có nhiều cuộc chạm trán nguy hiểm và đau thương – nhưng chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn leo thang.
Đầu những năm 1980, khi quan hệ ngoại giao Mỹ-Trung mới thành hình, các sách lược gia Mỹ đã cố gắng áp dụng những mô hình chung này vào quan hệ với lực lượng võ trang Bắc Kinh. Vào thời điểm đó, chỉ có những cuộc tiếp xúc và trao đổi quân sự khiêm tốn như các cuộc họp về học thuyết quân sự và huấn luyện chung. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã đột ngột dừng lại vào năm 1989, khi Hoa Thịnh Đốn đình chỉ chúng để đáp trả cuộc đàn áp quân sự của Bắc Kinh đối với người biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn. Quan hệ được phục hồi đôi chút vào đầu những năm 1990, nhưng không đủ để bù đắp cho căng thẳng gia tăng. Quân đội hai nước ngày càng hoạt động ở cự ly gần, dẫn đến một loạt các vụ suýt đụng độ, bao gồm sự cố trên biển Hoàng Hải tháng 10/1994, khi một tiềm thủy đỉnh và các tiêm kích cơ của Trung Quốc tuần tra ở khoảng cách nguy hiểm với các đơn vị thuộc Hạm đội Bảy của Mỹ, trong đó có cả hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk. Vào khoảng thời gian này, các quan chức dân sự và quân sự cấp cao của Trung Quốc liên tục phàn nàn với các đối tác Hoa Thịnh Đốn rằng phi cơ trinh sát Mỹ đang bay gần không phận Trung Quốc một cách nguy hiểm. Họ tuyên bố, không sai, rằng những chuyến bay này nhằm mục đích phơi bày các hệ thống phòng không và giao thức hoạt động khác nhau của Trung Quốc.
Khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ ba, kéo dài từ năm 1995 đến năm 1996, đã đẩy những vấn đề này lên đỉnh điểm. Để đáp trả việc Trung Quốc nã pháo vào vùng biển xung quanh Đài Loan, Mỹ quyết định khai triển hai hàng không mẫu hạm đến Tây Thái Bình Dương như một động thái phô trương sức mạnh nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động khiêu khích quân sự nào từ phía Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc lại xem những hành động này là vô cùng nhục nhã và gây leo thang, tạo ra sự ngờ vực đáng kể giữa quân đội hai nước.
Tại Hoa Thịnh Đốn, căng thẳng leo thang trong khủng hoảng Eo biển Đài Loan lần thứ ba đã dẫn đến sự đồng thuận lưỡng đảng về nhu cầu thiết lập các giao thức liên lạc quân sự với Bắc Kinh. Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo dân sự và quân sự Mỹ tại Ngũ Giác Đài cũng có những lý do khác để theo đuổi một quan hệ tốt đẹp hơn với các đối tác Trung Quốc. Quân Giải phóng Nhân dân từ lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong chính trị nội bộ Trung Quốc, và khi thế kỷ 21 đến gần, tầm ảnh hưởng toàn cầu của lực lượng này ngày càng mở rộng. Do đó, việc xây dựng quan hệ với các nhà lãnh đạo Quân Giải phóng Nhân dân không chỉ là cách để ngăn chặn thảm họa, mà còn là cách để định hình tư duy và thực tiễn toàn cầu của Bắc Kinh.
Những nỗ lực của Mỹ nhằm thiết lập thông tin liên lạc đạt đến đỉnh cao trong giai đoạn 1996-1999. Hai bên đã khởi động Hiệp định Hàng hải Quân sự năm 1998, nhằm ngăn chặn các ứng xử hải quân nguy hiểm, và thành lập một kênh liên lạc lãnh đạo đặc biệt – cái gọi là đường dây nóng giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh. Cả hai sáng kiến này đều được ca ngợi tại hội nghị thượng đỉnh năm 1998 giữa Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân và Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Các viên chức quân sự cấp cao từ Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân cũng bắt đầu đàm phán với các đối tác Trung Quốc để so sánh các học thuyết quân sự, nhằm tránh hiểu nhầm các hoạt động khai triển và huấn luyện quân sự tiêu chuẩn là sự chuẩn bị cho các hoạt động thù địch sắp xảy ra. Thậm chí còn có những trao đổi ngắn về các vấn đề liên quan đến nguyên tử, bao gồm độ an toàn của đầu đạn nguyên tử, cũng như các giao thức chỉ huy và phóng.
Nhưng sự can dự này chỉ diễn ra ở một mức độ nhất định. Hai bên có sự bất đồng sâu sắc về mục đích xử dụng và giá trị cuối cùng của các quy ước liên lạc này. Xét đến sự mất cân bằng rõ ràng về sức mạnh quân sự, Trung Quốc đặc biệt tỏ ra ngần ngại với việc làm cho quân đội của mình trở nên dễ liên lạc. Sau Chiến tranh Lạnh, tiềm thủy đỉnh và các chuyến bay trinh sát của Mỹ đã thực hiện các nhiệm vụ gần Trung Quốc đại lục, bao gồm cả ở Biển Đông, với tần suất cao hơn và hầu như không bị trừng phạt. Trung Quốc hoàn toàn tập trung vào việc thu hẹp khoảng cách về năng lực và mô hình khai triển, trong khi các sách lược gia quân sự của họ xem những nỗ lực xây dựng lòng tin của Mỹ là không chân thành, vốn được những người Mỹ xảo quyệt thiết kế không phải để ngăn chặn leo thang hoặc xung đột ngoài ý muốn, mà là để kiềm chế hoặc giám sát Trung Quốc. Theo quan điểm này, các nguyên tắc xây dựng lòng tin chính thức có thể được xử dụng để mang lại lợi thế cho Hoa Thịnh Đốn không chỉ trong một cuộc khủng hoảng trước mắt mà còn về lâu dài, bằng cách cung cấp cho Mỹ các kênh để ngăn chặn việc củng cố lực lượng đầy tham vọng của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
Dù vậy, các quan chức Trung Quốc vẫn duy trì một số quan hệ với quân đội Mỹ, mà họ tìm cách xử dụng cho mục đích riêng, chẳng hạn như hạn chế việc khai triển và các nỗ lực trinh sát của Mỹ trên các vùng lãnh thổ liền kề Trung Quốc đại lục. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã cố gắng giữ cho các trao đổi và cam kết quân sự luôn mơ hồ, được lên kế hoạch cẩn thận, và chủ yếu là hình thức. Thay vì tạo dựng niềm tin, họ lại tìm cách gieo rắc sự lo lắng và bất ổn trong tâm trí các viên chức điều hành Mỹ. Một ví dụ rõ ràng là vào năm 2001, khi một phi cơ phản lực của Trung Quốc giáp mặt với một phi cơ do thám EP-3 của Mỹ trên Biển Đông. Khi phi cơ Mỹ và 24 quân nhân trên đó bị buộc phải hạ cánh xuống Đảo Hải Nam, nơi có một căn cứ quân sự của Trung Quốc, các viên chức Mỹ đã cố gắng xử dụng các giao thức liên lạc cấp cao nhưng chỉ nhận được sự im lặng và cản trở từ phía các đối tác Bắc Kinh. Điện thoại đã đổ chuông mà không có người trả lời suốt 48 giờ khi những người Mỹ bị giam giữ và thẩm vấn tại một cơ sở quân sự. (Sau đó, họ bị giam giữ 11 ngày trước khi được thả.)
ƯU TIÊN CHO SỰ MƠ HỒ
Trong những thập niên sau đó, mức độ lo ngại của Mỹ đối với quá trình hiện đại hóa quân sự và các hoạt động của Trung Quốc chỉ tăng lên. Về phần mình, Bắc Kinh lại ngày càng trở nên ít cởi mở hơn. Mỹ đã nhiều lần cố gắng tạo ra các quy ước để ngăn chặn, quản lý, hoặc hạn chế sự cố trong một số lĩnh vực quân sự – từ không gian mạng đến vũ trụ. Nhưng những nỗ lực này luôn bị phía Trung Quốc điều hướng sai hoặc bị từ chối thẳng thừng. Mỗi khi các cuộc đối thoại liên quan đến an ninh giữa Mỹ và Trung Quốc được khởi động, chúng đều không đáp ứng được ngay cả những kỳ vọng hạn chế, chẳng hạn như khi đối thoại mạng của chính quyền Obama không hạn chế được hoạt động tấn công mạng của Trung Quốc. Hơn nữa, những cách ứng xử này thường làm gia tăng sự nghi ngờ hơn là xây dựng lòng tin. Ví dụ, khi chủ nhà Mỹ đưa các đối tác Trung Quốc đến quan sát huấn luyện thiết giáp tại Pháo đài Hood ở Texas, sĩ quan Trung Quốc đến thăm sau đó đã mô tả cuộc họp báo và các màn trình diễn là mang tính đe dọa và được thiết kế để đe dọa.
Thái độ dè dặt của Trung Quốc xuất phát từ mối ngờ vực sâu sắc của họ. Nhưng điều này được thể hiện qua nhiều cách. Ví dụ, Bắc Kinh luôn lo ngại rằng các thỏa thuận song phương với Hoa Thịnh Đốn sẽ vĩnh viễn xác định vị thế quân sự yếu kém của Trung Quốc. Theo quan điểm này, một bộ quy tắc ứng xử quân sự Mỹ-Trung sẽ mang lại “tấm vé miễn trừ” cho phép Mỹ tiếp tục các hoạt động tự do hàng hải trong khu vực vì họ có thể quản lý rủi ro và thoát khỏi khủng hoảng. Niềm tin rằng các biện pháp xây dựng lòng tin mang lại lợi ích bất đối xứng – rằng Hoa Thịnh Đốn được hưởng lợi nhiều hơn từ sự minh bạch so với Bắc Kinh – vẫn luôn tồn tại dai dẳng trong lực lượng võ trang Trung Quốc.
Trong lịch sử, Trung Quốc cũng ngần ngại tham gia các cuộc tập trận xây dựng lòng tin chính xác vì chúng được mô phỏng theo kinh nghiệm của Mỹ và Liên Xô. Điều này ít liên quan đến việc liệu các quy ước / cơ chế này có hiệu quả về mặt vận hành hay không, mà liên quan nhiều hơn đến cách nhìn nhận của mọi người về chúng: Các chiến lược gia Trung Quốc đã khôn ngoan tìm cách tránh tạo ấn tượng rằng Mỹ nên xem Trung Quốc là một đối thủ quân sự giống như Liên Xô. Điều này phù hợp với thông điệp rộng rãi hơn của Trung Quốc vào đầu những năm 2000, tìm cách giảm nhẹ những lời bàn tán về “sự trỗi dậy” của Trung Quốc, và thay vào đó tập trung vào “sự phát triển” quốc gia của Trung Quốc.
Trong chừng mực nào đó, mọi chuyện đã thay đổi: Bắc Kinh giờ đây muốn được coi là một siêu cường. Nhưng không giống như Liên Xô trước đây, Trung Quốc dường như không lo lắng về những rủi ro leo thang xuất phát từ việc có quan hệ không tốt với lực lượng võ trang Mỹ. Thậm chí, Bắc Kinh dường như còn cho đó là một lợi ích. Trong khi Hoa Thịnh Đốn thường chọn cách thể hiện sự nhạy bén về quân sự của mình với hy vọng rằng sức mạnh của họ sẽ khiến đối thủ phải dè chừng, thì Bắc Kinh lại chủ yếu chọn cách tạo ra sự bất định trong các hoạt động khai triển quân sự, ngoại giao, và học thuyết – hy vọng rằng điều này sẽ làm tăng thêm sự lo lắng của lực lượng Mỹ đối với tác chiến trực diện. Sách lược này phần lớn mang tính chánh trị. Dù một số chuyên viên phân tách Trung Quốc và thậm chí một số sĩ quan Quân Giải phóng Nhân dân đã ủng hộ việc tăng cường minh bạch giữa lực lượng hai bên, nhưng các nhà lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lại ưa chuộng sự mơ hồ xoay quanh năng lực hiện tại và các quy trình ứng phó khủng hoảng của Quân Giải phóng Nhân dân. Cuối cùng, họ tin rằng sự mơ hồ sẽ giúp tối đa hóa tính linh hoạt trong một cuộc khủng hoảng và tăng cường năng lực răn đe.
Và điều mà ĐCSTQ nói là: Quân Giải phóng Nhân dân là cánh tay võ trang của đảng, chứ không đơn thuần chỉ là lực lượng võ trang của Trung Quốc. Cấu trúc quân đội do ĐCSTQ chi phối này vô cùng cảnh giác trong việc bảo vệ quyền ra quyết định khi khủng hoảng, và cho rằng các quy ước / cơ chế xây dựng lòng tin là mối đe dọa tiềm tàng đối với quyền kiểm soát và thẩm quyền của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Và theo thiết kế, khi một tình huống quân sự xảy ra, ngoại giao quân đội sẽ can thiệp vào quyền kiểm soát của ĐCSTQ – nhưng đó lại chính xác là khi quyền kiểm soát là điều quan trọng nhất đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Có thể các nhà lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đang hạ thấp, thậm chí là bỏ qua nguy cơ chiến tranh ngoài ý muốn. Xét cho cùng, Mỹ và Trung Quốc chưa từng trải qua căng thẳng quân sự nghiêm trọng nào kể từ những năm cuối của Chiến tranh Liên Triều (Korean War). Và có lẽ phải cần đến những căng thẳng như vậy để các nhà lãnh đạo Trung Quốc thay đổi suy nghĩ, giống như khi Khủng hoảng Hỏa tiễn Cuba năm 1962 khiến Mạc Tư Khoa và Hoa Thịnh Đốn thiết lập quan hệ quân sự rõ ràng.
Nhưng Mỹ nên tiếp tục thúc đẩy việc tạo ra các kênh liên lạc khủng hoảng hiệu quả trước khi một tình huống khẩn cấp xảy ra. Nỗ lực của họ cuối cùng có thể thất bại. Tuy nhiên, với tiềm năng hỏa lực quân sự khổng lồ có thể được khai triển đối đầu nhau, hai cường quốc của thế kỷ 21 phải có tầm nhìn xa rộng để tạo ra những kênh liên lạc như vậy và không đẩy thế giới vào một cuộc khủng hoảng kiểu Khủng hoảng hỏa tiễn Cuba ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Kurt M. Campbell là Chủ tịch và Đồng sáng lập của The Asia Group. Ông từng giữ chức Thứ trưởng Ngoại giao và Điều phối viên Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tại Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ dưới thời chánh quyền Biden.
(Dan Viet phụ đính)