Nguồn: Ben Bland và William Matthews, “Beijing’s Dominance of the South China Sea Is Not Inevitable”, Foreign Policy, 17/07/2025

 

Biên dịch: Tạ Kiều Trang (nghiencuuquocte.org)

 

 

 

Tư duy nhóm và chủ nghĩa ngắn hạn đang làm lu mờ đi những đánh giá về vùng biển này.

 

 

Một tàu hàng chở container thuộc sở hữu Đan Mạch, chất đầy hàng, rời cảng Tân Gia Ba và tiến vào hải phận quốc tế. Tàu gửi tín hiệu đến hệ thống nhận dạng tàu thuyền “Trịnh Hòa” của Trung Quốc, cung cấp thông tin cập nhật về hàng hóa và hải trình dự kiến qua Biển Đông đến Thượng Hải. Bất chấp những lo ngại lâu nay về mối đe dọa của Trung Quốc đối với tự do hàng hải, Bắc Kinh vẫn cho phép tất cả tàu thương mại đi vào không gian giới hạn cuỷa những thủy tuyến thương mại toàn cầu trọng yếu này, miễn là tàu xử dụng công nghệ giám sát của Trung Quốc. Trái lại, lực lượng hải quân nước ngoài bị giới hạn nghiêm ngặt trong các vùng biển này, và quyền kiểm soát được duy trì bởi lực lượng hải quân và cảnh sát biển của Trung Quốc, đi kèm với mạng lưới trải rộng gồm tàu không người lái, drone, cảm biến và vệ tinh.

 

 

Năm ấy là năm 2035. Đoạn trích trên phản ánh một kịch bản giả định về sự thống trị của Trung Quốc ở Biển Đông mà chúng tôi vừa trình bày cho các cơ quan hoạch định chính sách và chuyên gia hàng hải ở Đông Nam Á và Vương quốc Anh trong một bài tập “dự báo ngược” (back-casting).

 

Là một phương pháp được các chính phủ, cơ quan tình báo và quân đội xử dụng nhằm giảm thiểu thiên kiến từ con người và khuyến khích tư duy phản biện, dự báo ngược là phản chiếu của dự báo (forecasting). Dự báo ngược yêu cầu các chuyên viên nghiên cứu phác họa một kịch bản tương lai có thể xảy ra, rồi truy ngược quay trở lại hiện tại và đặt câu hỏi “Tại sao lại thành ra như thế?” Mục tiêu không phải nhằm dự đoán tương lai, mà nhằm xác định các động lực dài hạn và các điểm bùng phát (trigger points) ngắn hạn.

 

Diễn biến và kết cục của tranh chấp ở Biển Đông sẽ định hình bản chất và quy mô sự trỗi dậy toàn cầu của Trung Quốc, cũng như tương lai của tự do hàng hải và thương mại mở. Nhưng chúng tôi lo ngại rằng tư duy nhóm và chủ nghĩa ngắn hạn đang làm lu mờ những đánh giá về vùng biển này.

 

Chúng tôi phác hoạ kịch bản này với vai trò như là một kết cục thực tế tồi tệ nhất (không tính các sự kiện thiên nga đen). Đáng kinh ngạc là nhiều quan chức và chuyên viên nghiên cứu ở Đông Nam Á mà chúng tôi đã tiếp xúc lại xem kết cục này chỉ đơn giản là một sự tiếp diễn của thường lệ. Đó là một trong nhiều những bất ngờ nảy sinh trong các cuộc thảo luận, qua đó nhấn mạnh tầm quan trọng của các phương pháp như dự báo ngược trong việc thách thức quan niệm thông thường.

 

Trong bối cảnh Bắc Kinh củng cố vị trí dẫn đầu ở Biển Đông, các chuyên viên phân tách quốc tế có xu hướng tập trung vào các yếu tố như sự bành trướng đáng kể của hạm đội hải quân và hải cảnh Trung Quốc, Trung Quốc xử dụng “chiến thuật vùng xám” và lạm dụng luật pháp quốc tế. Nhưng trong các cuộc thảo luận dự báo ngược, các đại biểu Đông Nam Á lại cho rằng, nếu Trung Quốc giành được toàn quyền kiểm soát Biển Đông, sự kết hợp giữa tiềm lực kinh tế của Bắc Kinh, cùng vị thế dẫn đầu ngày càng tăng trong công nghệ số và năng lượng tái tạo, mới là những cân nhắc mang tính quyết định hơn.

 

Vậy viễn cảnh này có thể diễn ra như thế nào? Trung Quốc sẽ tiếp tục các hoạt động gọi là “tằm ăn dâu” ở Biển Đông, đồng thời thăm dò điểm yếu trong hệ thống phòng thủ và xã hội của các bên tranh chấp khác (Brunei (Văn Lai), Nam Dương, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, Đài Loan và Việt Nam) và làm suy yếu hệ thống liên minh của Mỹ. Nhưng động lực chính sẽ đến từ sức mạnh kinh tế khổng lồ của Trung Quốc, được phát huy thông qua các phương tiện dụ dỗ và ép buộc.

 

Trung Quốc không chỉ là đối tác thương mại lớn nhất khu vực và là nhà thầu chủ chốt trong xây dựng hạ tầng vật chất. Họ còn ràng buộc các nền kinh tế Đông Nam Á vào mạng lưới sản xuất tiên tiến hàng đầu thế giới của mình, đầu tư và mua lại những startup hăng hái nhất khu vực (gồm GoTo Group, Lazada và Tokopedia), đồng thời cung cấp công nghệ số và năng lượng tái tạo tiên tiến với chi phí phải chăng. Điều này càng tiếp diễn, các chính phủ Đông Nam Á càng khó sẵn sàng mạo hiểm đánh đổi lợi ích kinh tế để phản kháng sự cưỡng ép của Bắc Kinh trên biển.

 

Viện dẫn dân số già hóa, gánh nặng nợ chính quyền địa phương và nhà đất, cũng như môi trường ngột ngạt đối với doanh nghiệp tư nhân, một số cơ quan hoạch định chính sách và chuyên gia phân tách ở Vương quốc Anh mà chúng tôi gặp gỡ đã đặt vấn đề về triển vọng kinh tế dài hạn của Trung Quốc. Nhưng những người tham gia hội thảo ở Đông Nam Á lại cho rằng, một Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng chậm, thậm chí, vẫn sẽ trở thành đối tác phát triển ngày càng quan trọng đối với quốc gia của họ trong thập niên tới nhờ ở gần và có mối liên kết sâu sắc. Họ tin rằng giới tinh hoa chánh trị Đông Nam Á sẽ không dám đương đầu với Bắc Kinh trong mười năm tới vì muốn giữ dòng chảy vốn và công nghệ, cộng với lo ngại chính đáng rằng Bắc Kinh sẽ trừng phạt kinh tế những nước chống đối ở Biển Đông.

 

Điều này có lẽ phản ánh những ưu tiên khác biệt nhau – ở Đông Nam Á, địa vị thống trị kinh tế của Trung Quốc vốn là một điều hiển nhiên, và không giống với sức cạnh tranh của Trung Quốc so với Tây phương, địa vị đó khó có thể bị suy giảm bởi bất cứ sự chậm lại nào trong tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc.

 

Các quốc gia ven biển Đông Nam Á đang nguy cấp đối mặt với nguy cơ nhiệt độ và mực nước biển dâng cao, cùng với nhu cầu năng lượng ngày càng tăng trong 10 năm tới, việc này có thể đẩy nhanh con đường đi đến thống trị của Trung Quốc. Mặc dù các chánh quyền Mỹ trước đây, cùng các đồng minh ở Âu châu và Á châu, đã khởi xướng vô số sáng kiến tài chính xanh trong khu vực, nhưng chúng vốn diễn ra ì ạch ngay từ trước lúc Tổng thống Donald Trump trở lại Tòa Bạch Cung và xáo trộn chánh sách khí hậu của Washington.

 

Trong khi đó, Trung Quốc đã thiết lập được vị thế thống lĩnh trong việc sản xuất tấm pin mặt trời, tuabin gió, công nghệ pin và xe điện giá rẻ, từ đó trở thành đối tác không thể thiếu với Đông Nam Á khi khu vực này phải hứng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Sự kết hợp giữa công nghệ tái tạo với mạng lưới kỹ thuật số, phần mềm, trí tuệ / trí thông minh nhân tạo và sức mạnh kinh tế truyền thống của Trung Quốc nhiều cơ hội sẽ kéo Đông Nam Á tiến sâu hơn vào vòng ảnh hưởng của Bắc Kinh.

 

Liệu Mỹ có cần phải rút quân khỏi Á châu để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông? Đã có cuộc tranh luận sôi nổi về câu hỏi này ở Vương quốc Anh và Đông Nam Á, trong đó những người tham gia thảo luận ở Âu châu tin tưởng hơn những người ở Đông Nam Á rằng lập trường của Mỹ có thể có ảnh hưởng. Trung Quốc đã làm nhiều thứ, bao gồm xây dựng và củng cố các căn cứ đảo lớn, cũng như đe dọa các nước láng giềng, để khẳng định quyền kiểm soát của mình đối với vùng biển tranh chấp. Điều này diễn ra bất chấp sự lên án của Mỹ từ năm 2010, khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia đối với tự do hàng hải và trong việc tôn trọng luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Nếu Washington vẫn giữ lập trường tương tự, thì Trung Quốc có tiềm năng sẽ tiếp tục con đường hiện tại. Để ngăn Trung Quốc, chắc chắn sẽ cần đến một phản ứng mạnh mẽ hơn và có thể dẫn đến leo thang từ phía Washington. Điều này cũng đi kèm với những rủi ro riêng.

 

Vậy làm thế nào để ngăn chặn Trung Quốc mà không làm tăng nguy cơ chiến tranh giữa hai siêu cường vũ khí hạt nhân? Trớ trêu ở chỗ, trong khi giới chức Đông Nam Á thường phàn nàn Mỹ và đồng minh xem nhẹ vai trò chủ động của họ, thì rất ít đại biểu Đông Nam Á tin rằng chính phủ của họ sẽ chủ động định hình kết cục ở Biển Đông. Không một ai trong số những đại biểu viết dự báo ngược cho rằng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), một tổ chức khu vực, sẽ có sức ảnh hưởng.

 

Thay vào đó, có một đồng thuận là Trung Quốc, ngày càng hùng mạnh và quyết đoán, sẽ chiến thắng trước tính tự mãn và chủ nghĩa ngắn hạn của các nước Đông Nam Á – trong khi Mỹ tuy nói hay nhưng vẫn hành động dè dặt.

 

Tuy nhiên, dù không có ý tỏ ra ngây thơ trong một thế giới mà sức mạnh thuần tuý và những kẻ liều lĩnh dường như đang chiếm ưu thế, nhưng chúng tôi tin, vẫn có cách ngăn chặn Trung Quốc toàn trị Biển Đông. Thành công của bất kỳ nỗ lực nào như vậy đều phụ thuộc vào độ thực dụng; việc đảo ngược hoàn toàn quyền lực của Bắc Kinh trong khu vực là phi thực tế, nhưng các nước Đông Nam Á và các đối tác ngoài khu vực vẫn có nhiều lựa chọn thiết thực để ngăn Trung Quốc tiến xa hơn.

 

Trước hết, nên ngăn Trung Quốc tiếp tục xâm phạm các lợi ích hàng hải của Đông Nam Á. Yêu cầu quan trọng nhất và khó khăn nhất cho việc này là ý chí chánh trị từ phía các quốc gia Đông Nam Á để gác lại những khác biệt trong khối và thể hiện lập trường thống nhất chống lại hoạt động vùng xám của Trung Quốc, qua đó chống lại nỗ lực của Trung Quốc nhằm làm suy yếu sự đoàn kết của ASEAN.

 

Một lập trường chung như vậy cần được hậu thuẫn bằng biện pháp răn đe đáng tin cậy. Một cách tương đối rẻ và hiệu quả để làm vậy là thông qua việc phát triển năng lực tuần tra hàng hải tự động và tăng cường giám sát hàng hải. Chúng có thể được tiến hành phối hợp với loạt đối tác ngoài khu vực, gồm Úc, Nhật Bổn, Nam Hàn và Mỹ, cũng như Vương quốc Anh, Pháp và các quốc gia Âu châu khác.

 

Chắc chắn các quốc gia như trên sẽ có lợi khi hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ này; khi năng lực khai triển sức mạnh hải quân của Trung Quốc tăng, Trung Quốc có thể sẽ tìm cách mở rộng các hoạt động vùng xám trên biển ở những nơi khác nếu không có biện pháp răn đe đáng tin cậy.

 

Tuy nhiên, thách thức lớn trong dài hạn đối với các nước Đông Nam Á là giảm phụ thuộc kinh tế và công nghệ vào Trung Quốc trong khi tránh chọn phe trong cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa Trung Quốc và Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh đối mặt với chánh quyền Washington ngày càng theo xu hướng chủ nghĩa bảo hộ.

 

Chiến lược tốt nhất là đa dạng hóa, bao gồm thông qua thúc đẩy thương mại nội khối, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc tìm nguồn cung năng lượng và các công nghệ mới nổi bên ngoài Trung Quốc hoặc Mỹ. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) – một hiệp định thương mại gồm Brunei (Văn Lai), Mã Lai Á, Tân Gia Ba và Việt Nam, cùng với Úc, Nhật Bổn và Vương quốc Anh – là một diễn đàn hữu ích, đặc biệt trong bối cảnh các nền kinh tế khác trong khu vực, trong đó có Nam Dương và Nam Hàn, bày tỏ quan tâm muốn gia nhập.

 

Dấu ấn kinh tế của Trung Quốc ở Đông Nam Á – cùng năng lực và thiện chí cung cấp hệ thống kỹ thuật số và công nghệ năng lượng tái tạo rẻ và hiệu quả trên quy mô lớn – không thể bị hoá giải ngay cả khi có sự tham gia sâu rộng từ các đối tác như Âu châu, Nhật Bổn, Nam Hàn và Úc Đại Lợi. Tuy vậy, thông qua hợp tác trong và ngoài khu vực, các nước Đông Nam Á có thể đa dạng hóa chuỗi cung ứng và tạo dựng thị trường ngách mà Trung Quốc chưa chiếm lĩnh. Cụ thể, họ nên cố gắng thu hút đầu tư từ bên ngoài vào những lĩnh vực có thể mang lại cho nền kinh tế khu vực một đòn bẩy hai chiều với Trung Quốc.

 

Khi theo đuổi quá trình chuyển đổi xanh và số hóa mạnh mẽ hơn, các nước Đông Nam Á nên tránh phụ thuộc quá mức vào công nghệ của Trung Quốc, bằng cách tìm kiếm công ty cung cấp thay thế đối với năng lượng tái tạo, năng lượng hạt nhân và hệ thống trí tuệ nhân tạo. Đối với chiến lược giảm phát thải car-bon và giảm thiểu biến đổi khí hậu, các quốc gia ngoài khu vực sẽ làm tốt nếu lắng nghe kỹ lưỡng nhu cầu của khu vực và điều chỉnh cách ứng xử cho phù hợp. Đối với hệ thống trí tuệ / trí thông minh nhân tạo, các đối tác bên ngoài có thể thu lợi từ việc tạo dựng một không gian khác thay thế cho không gian đang bị chi phối bởi công nghệ Trung Quốc hoặc Mỹ.

 

Một trong những yếu tố mang tính truyền tải nhất từ quá trình làm dự báo ngược là chứng kiến sự bối rối của các chuyên gia luật quốc tế khi nghe người khác lập luận rằng các tiến trình pháp lý sẽ gần như không tác động gì đến việc định hình cán cân quyền lực đang thay đổi ở Biển Đông trong thập niên tới. Giới chức, chuyên gia nghiên cứu và học giả – những người dành phần lớn thời gian nhìn một vấn đề cụ thể qua một lăng kính duy nhất – thường đánh mất cái nhìn tổng thể cũng như về cách mà những mối liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thúc đẩy sự thay đổi.

 

Trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục củng cố vị thế, các quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền, cùng với các đối tác quan tâm đến tương lai Biển Đông, cần khẩn trương nhìn nhận tranh chấp theo hướng bao quát hơn. Bằng việc hiểu được cách Bắc Kinh đang kết hợp công nghệ, sức mạnh công nghiệp, tiềm lực kinh tế, sức nặng quân sự và tham vọng ngoại giao, các quốc gia Đông Nam Á cùng đối tác Âu châu, Mỹ và Á châu có thể phản ứng hiệu quả hơn nhờ tận dụng lợi thế riêng biệt từ liên minh và mạng lưới đáng tin cậy của mình.

 

 

Ben Bland là Giám đốc Chương trình Á Châu– Thái Bình Dương tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh (Chatham House).

 

 

William Matthews là Nghiên cứu viên cao cấp về Trung Quốc và Thế giới tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia Anh.

 

 

(Phụ đính: DanViet Newspaper)