Nguồn: Susannah Patton, “The Two Southeast Asias,” Foreign Affairs, 25/09/2025
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org)
Các quốc gia lục địa và hải đảo trong khu vực đang ngày càng chia rẽ với nhau.
Các cơ quan hoạch định chánh sách và học giả Tây phương thường xem Đông Nam Á là một khu vực thống nhất, nhưng trên thực tế, khu vực này luôn bị chia cắt. 700 triệu người Đông Nam Á đang nói hàng trăm ngôn ngữ và theo nhiều tôn giáo khác nhau, và 11 quốc gia trong khu vực cũng có sự khác biệt về hệ thống chính trị, kích thước, đặc điểm địa lý, và trình độ phát triển kinh tế. Trong suốt Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á bị chia thành hai khối: năm thành viên sáng lập Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – Nam Dương, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, và Thái Lan – liên minh với Mỹ, trong khi ba nước Đông Dương – Cam Bốt, Lào, và Việt Nam – liên minh với Trung Quốc hoặc Liên Xô.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, ASEAN dần mở rộng để bao gồm Cam Bốt, Lào và Việt Nam, cùng với Vương quốc Hồi giáo Văn Lai (Brunei) nhỏ bé, theo đó làm tăng thêm vị thế nổi bật của Đông Nam Á như một thực thể địa chính trị. Tuy nhiên, bất chấp những thành tựu của ASEAN trong việc thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên, một Đông Nam Á gắn kết vẫn chỉ là huyền thoại thay vì hiện thực.
Nơi này thực tế là hai khu vực, chứ không phải một. Theo Chỉ số Ảnh hưởng Đông Nam Á của Viện Lowy, một chỉ số đánh giá ảnh hưởng của các đối tác nước ngoài trên toàn khu vực, tồn tại hai mạng lưới riêng biệt giữa các quốc gia Đông Nam Á: Cam Bốt, Lào, Miến Điện, Thái Lan, và Việt Nam tạo thành một nhóm lục địa nghiêng về Trung Quốc. Nam Dương, Mã Lai Á, và Tân Gia Ba tạo thành một nhóm hải đảo, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cũng như hợp tác với nhiều chính phủ bên ngoài khu vực hơn, đồng thời luôn tìm cách phòng ngừa nước đôi giữa Mỹ và Trung Quốc. Và Phi Luật Tân là trường hợp ngoại lệ. Nước này thiếu bạn bè thân thiết trong số các nước ASEAN khác và phụ thuộc vào các đối tác ngoài Á châu, đặc biệt là Mỹ, nhiều hơn bất kỳ nước láng giềng nào.
Khoảng cách giữa hai mạng lưới các quốc gia Đông Nam Á này dự kiến sẽ ngày càng gia tăng trong những thập kỷ tới, và tạo ra một vùng ảnh hưởng thực tế (de facto) của Trung Quốc ở lục địa Đông Nam Á. Để ngăn chặn Bắc Kinh xâm nhập sâu hơn nữa, Mỹ nên tăng cường quan hệ với các quốc gia nằm giữa hai tiểu vùng Đông Nam Á: Thái Lan và Việt Nam.
SÂN SAU CỦA BẮC KINH
Rừng rậm cùng với núi non hiểm trở ngăn cách Trung Quốc với Lào, Miến Điện, và Việt Nam, và phải băng qua các nước này để tới Cam Bốt và Thái Lan. Chuyên gia về nhân chủng học James Scott từng gọi địa hình hiểm trở này là “Zomia” và mô tả cách nó ngăn cản bất kỳ quốc gia nào kiểm soát hoàn toàn vùng cao nguyên này trong phần lớn lịch sử khu vực. Trên thực tế, rào cản địa lý ngăn cách lục địa Đông Nam Á với Trung Quốc suốt hàng thiên niên kỷ và tạo ra một giới hạn tự nhiên đối với sự bành trướng của nhà nước Trung Hoa. Nhưng đến thế kỷ 21, kỹ nghệ đã vượt qua địa hình. Đường bộ, đường sắt xe lửa và các đặc khu kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người và hàng hóa di chuyển giữa Trung Quốc và lục địa Đông Nam Á.
Thông qua Sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đã và đang cung cấp tài chính cho các siêu dự án mới hạ tầng cơ sở, đặc biệt là đường sắt xe lửa, trên khắp khu vực. Nhiều dự án trong số này kết nối trực tiếp các quốc gia Đông Nam Á lục địa với Trung Quốc, từ đó làm thay đổi bản chất quan hệ của họ với Bắc Kinh theo một cách khác với các quốc gia hải đảo. Ví dụ, vào năm 2021, miền nam Trung Quốc đã được kết nối bằng đường sắt xe lửa với thủ đô Vạn Tượng (Vientiane) của Lào. Tầm nhìn cuối cùng của Trung Quốc là gắn tuyến đường sắt xe lửa này với các dự án trên khắp Thái Lan và Mã Lai Á để thiết lập một tuyến đường sắt xe lửa nối Tân Gia Ba với thành phố Côn Minh của Trung Quốc. Tuyến đường sắt xe lửa có tác động sâu sắc đối với Lào, một nước nhỏ bé, đang phát triển và đang mắc nợ Trung Quốc rất nhiều. Giá trị thương mại giữa hai nước đã tăng vọt kể từ khi tuyến đường sắt xe lửa được mở, phần lớn là từ xuất cảng nông sản do người Lào canh tác trên đất cho các nhà đầu tư Trung Quốc thuê.
Tất nhiên, quan hệ giữa Lào và Trung Quốc cũng có mặt trái. Trong những năm đầu thế kỷ này, Lào đã thành lập các đặc khu kinh tế trong một nỗ lực chính đáng nhằm khuyến khích đầu tư nước ngoài. Nhưng ngày nay, chúng đã trở thành những không gian vô chính phủ, nơi các doanh nhân Trung Quốc và thậm chí cả lực lượng an ninh nước này có thể hoạt động ngoài vòng pháp luật. Buôn bán ma túy, tội phạm động vật hoang dã, tình trạng di cư không kiểm soát của người lao động từ Miến Điện và các nước láng giềng khác, và lừa đảo mạng đã tăng mạnh ở những khu vực này. Trên thực tế, Lào không có chủ quyền hoàn toàn đối với phần lớn lãnh thổ của mình. Trong khi đó, tại Miến Điện, nội chiến đã làm chậm tiến độ các dự án đường bộ và đường sắt xe lửa nhằm kết nối Trung Quốc với Ấn Độ Dương, nhưng một đường ống dẫn dầu khí vẫn tiếp tục hoạt động bất chấp giao tranh ác liệt.
Ngay cả Việt Nam, vốn có truyền thống e ngại ảnh hưởng của Trung Quốc, cũng đã thu hút lượng lớn đầu tư tư nhân từ Trung Quốc do cuộc thương chiến giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh. Nhiều công ty đang chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam, đặc biệt là miền bắc Việt Nam – một sự thay đổi so với truyền thống lâu đời, trong đó miền nam Việt Nam là trung tâm thương mại và giao thương quan trọng hơn. Mức quan thuế 20% của Mỹ áp dụng lên hàng hóa Việt Nam vẫn thấp hơn so với hàng hóa Trung Quốc, vậy nên Trung Quốc nhiều tiềm năng sẽ tiếp tục đầu tư vào Việt Nam.
Trung Quốc cũng đã tài trợ cho các dự án đường sắt xe lửa ở khu vực Đông Nam Á hải đảo. Chẳng hạn, vào năm 2023, một tuyến đường sắt xe lửa cao tốc nội địa trị giá 7,3 tỷ đô-la đã được khánh thành, nối liền thủ đô Jakarta của Nam Dương với Bandung. Một dự án đường sắt nối liền bờ biển phía đông và phía tây Mã Lai Á hiện đang được xây dựng, với chi phí khoảng 12 tỷ đô-la. Dù các dự án ở các quốc gia hải đảo góp phần củng cố vị thế đối tác kinh tế của Bắc Kinh, nhưng chúng vẫn chưa thực sự kết nối Nam Dương hay Mã Lai Á với Trung Quốc theo cách có ý nghĩa.
TỰ DO VÀ THÔNG SUỐT
Trong lúc Đông Nam Á lục địa thay đổi nhờ mối liên hệ với Trung Quốc trong thập niên qua, thì điều đó lại không đúng với Đông Nam Á hải đảo, vốn từ lâu đã có vị trí địa lý mở ra nhiều mối giao thương với các đối tác khác nhau. Hai quốc gia hải đảo lớn nhất khu vực, Nam Dương và Phi Luật Tân, là những quần đảo rộng lớn; cùng với Tân Gia Ba và Mã Lai Á, họ nằm trên những tuyến đường thủy quan trọng kết nối Á châu với thế giới. Tương tự như cách Scott gọi vùng cao nguyên của lục địa Á châu là “Zomia,” nhà báo Philip Bowring đã đặt ra thuật ngữ “Nusantaria” để mô tả vùng biển rộng lớn của Đông Nam Á.
Trong những năm qua, Trung Quốc đã cố gắng khẳng định quyền kiểm soát đối với tuyến đường biển trung tâm của khu vực, Biển Đông, và do đó gây lo ngại cho nhiều quốc gia trên toàn cầu, bởi họ cần các tuyến đường biển tự do và thông suốt để phục vụ thương mại. Năm 2016, một tòa án của Liên Hiệp Quốc đã bác bỏ yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực nằm trong “đường chín đoạn” bao phủ gần như toàn bộ Biển Đông. Kể từ đó, hàng chục quốc gia, bao gồm cả Anh, đã ủng hộ phán quyết, nhấn mạnh tầm quan trọng toàn cầu của những tuyến đường thủy này.
Vì các quốc gia Đông Nam Á hải đảo lớn hơn và quan trọng hơn đối với thương mại toàn cầu so với các quốc gia lục địa, nên họ có xu hướng nhận được nguồn tài chính đầu tư và phát triển từ nhiều tổ chức tài trợ nước ngoài hơn. Về mặt quốc phòng, họ cũng thu hút nhiều sự quan tâm hơn. Trong số các sáng kiến hợp tác quốc phòng mới giữa chính phủ Tây phương và Đông Nam Á kể từ năm 2017, hầu hết là với các quốc gia hải đảo và Việt Nam. Dưới áp lực ngày càng tăng từ các yêu sách biển rộng khắp của Trung Quốc và sự xâm phạm liên tục vào vùng đặc quyền kinh tế của họ, các quốc gia hải đảo cảm thấy cần phải hợp tác với Mỹ và các nước Tây phương khác. Mỹ và các đồng minh, đặc biệt là Úc Đại Lợi và Nhật Bổn, đang sử dụng các quốc gia Đông Nam Á hải đảo để thúc đẩy các mục tiêu riêng của họ liên quan đến Trung Quốc. Chẳng hạn, Mỹ xem các cuộc tập trận quân sự chung với Phi Luật Tân là một cách để duy trì quyền tiếp cận trong cái gọi là chuỗi đảo thứ nhất, ngăn cách Trung Quốc với Thái Bình Dương. Hoa Thịnh Đốn cũng tăng cường bán vũ khí và hợp tác quân sự với Phi Luật Tân, nước đang phải đối mặt với hầu hết các hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển, như một khoản đầu tư vào việc duy trì sự tôn trọng luật pháp quốc tế và là một nỗ lực ngăn chặn Trung Quốc khuất phục các nước nhỏ hơn theo ý muốn của mình.
CHÚ Ý KHOẢNG CÁCH
Hai nhóm quốc gia Đông Nam Á sẽ còn tiếp tục chia rẽ. Các quốc gia hải đảo trong khu vực sẽ vẫn mở cửa cho nhiều đối tác. Trung Quốc sẽ là nguồn ảnh hưởng bên ngoài lớn nhất của họ, nhưng không quá lớn, và nhiều quốc gia khác, bao gồm Mỹ, Úc Đại Lợi, Ấn Độ và Nhật Bổn, sẽ làm suy yếu ảnh hưởng của Bắc Kinh. Mặt khác, Đông Nam Á lục địa nhiều khả năng sẽ trở thành một phần trong phạm vi ảnh hưởng thực tế của Bắc Kinh. Trung Quốc tuy không nắm quyền lực tuyệt đối đối với các nước này, nhưng sẽ có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia nào khác ngoài khu vực.
Tổng thống Mỹ Donald Trump dường như bị thu hút bởi ý tưởng về phạm vi ảnh hưởng. Ông muốn tái khẳng định sự thống trị của Mỹ ở Tây Bán cầu, đồng thời thể hiện sự tôn trọng đối với lợi ích của Nga ở Âu châu. Có lẽ cuối cùng Mỹ sẽ xem Đông Nam Á lục địa là một phần trong phạm vi ảnh hưởng tự nhiên của Trung Quốc. Đối với một nước Mỹ đang tìm cách giảm bớt các cam kết quốc tế, quyết định ngừng cạnh tranh với Trung Quốc ở khu vực này có thể là một quyết định hợp lý.
Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn nên cảnh giác với hậu quả của một thỏa thuận như vậy. Và nếu không muốn làm suy yếu vị thế của chính mình ở Đông Nam Á, họ nên củng cố quan hệ với các quốc gia nằm ngoài vùng ảnh hưởng của Bắc Kinh: Việt Nam và Thái Lan. Việt Nam có đặc điểm là một quốc gia lục địa. Nước này có hệ thống chính trị khép kín, lịch sử liên kết với Liên Xô, quan hệ sâu sắc với Cam Bốt và Lào, và mối liên hệ ngày càng tăng với Trung Quốc. Nhưng Việt Nam đang ngày càng bày tỏ sự quan tâm đến biển đảo. Ví dụ, vào năm 2023, nước này nâng cấp quan hệ với Mỹ lên thành quan hệ đối tác chiến lược toàn diện – một dấu hiệu cho thấy họ xem Mỹ là một đối tác quan trọng. Tiếc thay, chính quyền Trump lại lãng phí thiện chí đó khi xem Hà Nội là đối thủ trong các cuộc đàm phán quan thuế một chiều, một động thái có nguy cơ gây tổn hại lâu dài cho vị thế của Mỹ tại Việt Nam.
Mỹ cũng nên chú ý nhiều hơn đến Thái Lan, đồng minh thời Chiến tranh Lạnh và là một nền kinh tế tiên tiến, nước từ lâu đã thân thiện với nhiều đối tác bên ngoài, bao gồm cả các nước Tây phương. Tuy nhiên, kể từ năm 2006, nền dân chủ của Thái Lan đã bị xói mòn, và Vọng Các (Bangkok) đang củng cố cả quan hệ kinh tế lẫn quốc phòng với Bắc Kinh. Mỹ phải đầu tư nhiều hơn vào liên minh này và tránh các hành động trừng phạt có thể đẩy Thái Lan vào vòng tay của các quan chức Bắc Kinh. Ví dụ, hồi tháng Ba, Hoa Thịnh Đốn đã trừng phạt các quan chức Thái Lan vì trục xuất 40 người Duy Ngô Nhĩ xin tị nạn sang Trung Quốc. Bằng cách củng cố quan hệ với Việt Nam và Thái Lan, Mỹ có thể góp phần bảo đảm rằng khu vực Đông Nam Á hải đảo vẫn mở cửa, đặt ra một giới hạn tự nhiên đối với tiềm năng thống trị Á châu của Trung Quốc, và bảo vệ lợi ích của Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương rộng lớn hơn.
Susannah Patton là Giám đốc Chương trình Đông Nam Á tại tổ chức tư vấn và nghiên cứu Lowy Institute.
(Dan Viet phụ đính)