Thiết bị của Quân đội Hoa Kỳ tại Cảng Esbjerg, Đan Mạch, tháng Tư năm 2025. Ảnh: Bo Amstrup / Reuters

 

 

Nguồn: Christopher S. Chivvis,  “How U.S. Forces Should Leave Europe,” Foreign Affairs, 23/07/2025

 

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng (nghiencuuquocte.org)

 

 

Và tại sao Trump nên bắt đầu quá trình đó ngay bây giờ?

 

Suốt hàng thập niên qua, năng lực tự vệ tập thể của Âu châu chỉ là một khát vọng xa vời. Nhưng giờ đây, thời khắc để hiện thực hóa mục tiêu này cuối cùng cũng đến. Động lực đang dần hình thành mạnh mẽ ở Âu châu: nhiều năm thực hiện các bước nhỏ để củng cố nền quốc phòng Âu châu đã nhường chỗ cho những hành động lớn sau khi Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022, và những nỗ lực này lại càng tăng tốc sau sáu tháng kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nhậm chức. Các nhà lãnh đạo Âu châu đã hứa sẽ tăng mạnh chi tiêu quốc phòng và các khoản chi khác liên quan đến quốc phòng tại hội nghị thượng đỉnh NATO vào tháng 6, nâng cam kết ngân sách chung của các thành viên từ 2% lên 5% GDP. Để thực hiện những cam kết quan trọng này, Âu châu đang giới thiệu các cơ chế tài chính mới và phá bỏ các rào cản hợp tác trong ngành công nghiệp quốc phòng của mình.

 

Mối nguy hiện nay là Âu châu sẽ mất đi động lực – và Mỹ, bằng cách trì hoãn việc rút quân dự kiến khỏi lục địa, sẽ cho phép điều đó xảy ra. Cả hai bên đều có lý do chính đáng để mong muốn Âu châu thành công củng cố quốc phòng. Mỹ cũng có thể giải phóng lực lượng hiện đang đồn trú tại Âu châu cho các nhiệm vụ khác, hoặc đơn giản là cắt giảm chi tiêu và bỏ túi khoản tiết kiệm. Một Âu châu có năng lực cũng hơn sẽ trở thành đối tác mà Washington muốn và cần, và họ sẽ có được sự tự do để thiết lập chiến lược riêng với tư cách là một cường quốc toàn cầu.

 

Để bảo đảm quá trình tái cân bằng cần thiết này sẽ diễn ra, chính quyền Trump phải rút một lượng lớn quân đội Mỹ khỏi Âu châu ngay từ bây giờ, và thực sự chuyển gánh nặng phòng thủ thông thường sang cho châu lục này. Việc do dự sẽ làm suy yếu tiến trình của Âu châu và có nguy cơ khiến các bên mắc kẹt trong một cấu trúc an ninh không tối ưu trong nhiều năm tới. Để khuyến khích Âu châu thực hiện lời hứa của mình, Washington phải vạch ra một kế hoạch thực tế, có mục tiêu, và theo từng giai đoạn, nhằm cắt giảm khoảng một nửa quân số Mỹ tại Âu châu trong bốn vòng năm tới, nhưng vẫn duy trì các lực lượng thiết yếu đối với lợi ích an ninh của Mỹ, hoặc các lực lượng mà Âu châu không thể thay thế một cách hợp lý trong thời gian đó. Nếu việc rút quân được thực hiện tốt, sẽ không có nhiều lý do để lo ngại rằng nó sẽ chấm dứt quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương, hoặc khiến cả hai bên trở nên kém an toàn hơn.

 

 

CƠ HỘI

Thời điểm tốt nhất để Âu châu gánh vác gánh nặng quốc phòng lớn hơn chính là ngay bây giờ – chứ không phải năm hay mười năm nữa, khi ý chí chánh trị có thể đã phai nhạt, hoặc một tình huống khẩn cấp ở nơi khác buộc Mỹ phải rút quân đột ngột. Lý do để thực hiện sự thay đổi này sẽ không biến mất. Cạnh tranh với Trung Quốc và sự trỗi dậy của các cường quốc toàn cầu khác đã làm thay đổi thực tế chiến lược của Mỹ. Washington không còn có thể duy trì vị thế bá chủ quân sự toàn cầu mà họ đã giành được sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Để tránh bị quá tải, Mỹ phải phân bổ nguồn lực một cách khôn ngoan, nghĩa là rút quân hoặc giảm quy mô lực lượng ở một số khu vực trên thế giới. Nếu không làm như vậy, nước này sẽ cạn kiệt nguồn lực, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng tài chính trong nước, và dập tắt mọi hy vọng duy trì vị thế dẫn đầu quân sự toàn cầu mà Mỹ vẫn đang nắm giữ. Mọi chính quyền Mỹ kể từ thời Tổng thống Barack Obama đều nhận ra vấn đề cấp thiết này – về lý thuyết, nhưng hiếm khi trong thực tế – và các chính quyền tương lai cũng khó mà nghĩ khác đi. Sự thật là số lượng lính Mỹ được khai triển ở Âu châu đang lớn hơn mức cần thiết để bảo vệ các lợi ích cốt lõi của Mỹ tại lục địa này, nên rút quân sẽ luôn nằm ở đầu danh sách cắt giảm nguồn lực. Lý do không phải vì Âu châu không quan trọng với Mỹ, mà vì duy trì một lực lượng Mỹ lớn ở Âu châu là không cần thiết nếu xét theo mức độ đe dọa hiện tại, và lại càng trở nên dư thừa khi sức mạnh quân sự của Âu châu tăng lên.

 

Nga, tất nhiên, vẫn là mối đe dọa nghiêm trọng đối với Âu châu và Mỹ. Tổng thống Vladimir Putin khinh thường cả hai. Ông sở hữu võ khí nguyên tử tinh vi, năng lực tình báo và tác chiến hỗn hợp hiệu quả, cùng một lực lượng thông thường hùng hậu đã được tôi luyện qua nhiều năm chiến tranh với Ukraine. Nhưng không phải tất cả những năng lực này đều trực tiếp đe dọa Mỹ. Đúng là võ khí nguyên tử tầm xa và năng lực mạng tân tiến của Nga đặt Mỹ vào tình thế nguy hiểm, tương tự là các điệp viên ngầm của Nga chuyên do thám, phá hoại xã hội dân sự, và ám sát thường dân. Tuy nhiên, xe tăng và pháo binh Nga thì không. Việc tập trung nguồn lực của Mỹ vào phòng thủ nguyên tử, phòng thủ mạng, và phòng thủ vùng xám, trong khi để lại phần lớn nhiệm vụ phòng thủ trên bộ cho các đồng minh Âu châu sẽ là một sự phân chia trách nhiệm bền vững hơn khi Washington thu hẹp các cam kết của mình.

 

Cuộc chiến ở Ukraine thường được viện dẫn như một lý do để duy trì lực lượng Mỹ ở mức hiện tại – theo logic này, nếu Putin sẵn sàng xâm lược Ukraine, thì ông cũng sẵn sàng xâm lược các nước Âu châu khác, và quân đội Mỹ cung cấp một biện pháp răn đe hữu hiệu chống lại điều này. Nhưng với việc quân đội Nga còn đang cố thủ ở Ukraine, Điện Kremlin sẽ chẳng thể nghiêm túc cân nhắc một cuộc tấn công thông thường vào một quốc gia NATO trong ít nhất là vài năm tới. Điều này tạo ra một cơ hội cho cả Mỹ lẫn Âu châu. Nếu Mỹ có thể chuyển giao nhiều trách nhiệm an ninh Âu châu hơn cho chính Âu châu ngay từ bây giờ, thì bất kỳ khoảng trống nào cũng có thể được lấp đầy vào thời điểm Nga rút khỏi Ukraine và tái thiết sức mạnh.

 

Âu châu đang ở vào một thời điểm thuận lợi hơn bao giờ hết để dẫn đầu nhiệm vụ bảo vệ lục địa. Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine đã cho công chúng Âu châu thấy thực tế khắc nghiệt của mối đe dọa từ Moscow và làm giảm sự phản đối của họ đối với việc tăng chi tiêu quân sự. Trong khi đó, các nhà lãnh đạo của họ đã chứng kiến việc Mỹ phân tán sự chú ý sang Đông Á và Trung Đông. Joe Biden sẽ là Tổng thống Mỹ cuối cùng có thể được xem là người theo chủ nghĩa xuyên Đại Tây Dương thực sự của thế hệ Chiến tranh Lạnh, bởi các tổng thống tương lai sẽ không bị thu hút bởi Âu châu theo cách tương tự. Các nhà lãnh đạo Âu châu đang nhận ra nguy cơ rằng người Mỹ có thể thực sự không đến bảo vệ lục địa của họ. Và họ có trách nhiệm đạo đức và chánh trị để bảo đảm rằng họ có thể bảo vệ người dân bằng cách tăng cường năng lực phòng thủ của chính mình. Đây chính là cơ hội để họ xây dựng một Âu châu tự lực hơn, tự tin hơn, và có năng lực hơn – cũng như bảo đảm một NATO mạnh mẽ và bền vững hơn.

 

 

NHỮNG PHỨC TẠP CẦN GIẢI QUYẾT

Lý do chiến lược cho việc rút quân đáng kể của Mỹ là rất mạnh, nhưng như mọi khi, vấn đề nằm ở chi tiết. Một số lực lượng Mỹ ở Âu châu đang đóng vai trò thiết yếu trong việc bảo vệ Bờ Đông nước Mỹ khỏi một cuộc tấn công trên biển của Nga từ Bắc Đại Tây Dương, đặc biệt là qua các khoảng trống đại dương giữa Greenland, Iceland, và Anh. Các võ khí thông thường khác của Mỹ được khai triển trên lục địa này, như phi cơ trinh sát Rivet Joint, Global Hawk, và P-8, có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo quan trọng. Việc loại bỏ những sức mạnh này sẽ là không khôn ngoan.

 

Trong một số trường hợp, việc các võ khí lớn của Mỹ ở Âu châu phục vụ nhiều mục đích khác nhau đã ngăn cản việc rút quân đáng kể. Ví dụ, tàu chiến Mỹ rất cần thiết ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và Âu châu thực chất đã có năng lực hải quân mạnh mẽ. Nhưng nhiều tàu Mỹ vẫn cần phải ở lại vị trí hiện tại của chúng. Lực lượng hải quân Mỹ tại Âu châu cung cấp một loạt võ khí được xử dụng cho các nhiệm vụ khác nhau, và một vài trong số đó vẫn phải tiếp tục được thực hiện ở Âu châu trong tương lai gần. Hãy lấy tàu khu trục lớp Arleigh Burke, chiến hạm chủ lực của Hải quân Mỹ, làm ví dụ. Người ta không thể tháo dỡ hỏa tiễn Tomahawk của tàu khu trục, vì chức năng tấn công mặt đất của nó dự kiến sẽ được Âu châu thay thế, mà không tháo dỡ radar Aegis của nó, vốn là nền tảng cho mạng lưới phòng thủ hỏa tiễn Âu châu. Tiềm thủy đỉnh nguyên tử lớp Ohio, một thành phần chủ chốt trong bộ ba nguyên tử của Mỹ, cũng yêu cầu được xử dụng một số căn cứ hải quân nhất định ở Âu châu. Việc duy trì sự hiện diện ở Âu châu– đặc biệt là việc xử dụng căn cứ ở Rota, Tây Ban Nha – cũng rất quan trọng đối với mạng lưới hậu cần và năng lực khai triển sức mạnh của Hải quân Mỹ đến các khu vực khác trên thế giới.

 

Rõ ràng Mỹ không nên rút toàn bộ lực lượng khỏi Âu châu. Họ cũng không nên rút võ khí quá nhanh và ở quá nhiều khu vực cùng một lúc, tước đi những năng lực mà quân đội Âu châu không thể thay thế một cách thỏa đáng trong vài năm tới. Khi lên kế hoạch rút quân, Washington phải đặt ra những kỳ vọng tuy tham vọng nhưng thực tế về những gì nguồn lực tài chánh, bộ máy hành chánh, và nền tảng công nghiệp quốc phòng của Âu châu có thể đạt được. Washington cũng phải chấp nhận rằng việc tạo ra khoảng trống khi rút quân sẽ mang lại một số rủi ro – nếu không chấp nhận điều đó, việc rút quân có lẽ sẽ không bao giờ diễn ra – nhưng họ không nên liều lĩnh đặt Âu châu trước nguy cơ bị Nga tấn công.

 

Nhưng cũng rất dễ để phóng đại những rủi ro mà việc Mỹ rút quân gây ra, và đánh giá thấp năng lực của Âu châu trong việc đối phó với những rủi ro đó một cách thỏa đáng. Việc quản lý rút quân một cách có trách nhiệm trong khi vẫn duy trì nhiều năng lực thiết yếu không phải là bỏ rơi Âu châu. Tuy nhiên, đó có thể là cách các bên có lợi ích liên quan ở cả hai bờ Đại Tây Dương mô tả việc Mỹ rút quân. Ví dụ, các nhà lãnh đạo Âu châu gặp trở ngại trong việc tăng cường chi tiêu và sản xuất quốc phòng có thể lên tiếng phản đối. Những người ủng hộ Lục quân Mỹ cũng có thể lập luận rằng vì quân đội không cần thiết ở Á châu, nên họ cũng có thể ở lại Âu châu, nhưng điều này không hề có ý nghĩa chiến lược vì quân đội Âu châu có thể tự mình đảm đương công việc. Để bác bỏ những tuyên bố phóng đại và chống lại áp lực duy trì quân số ở mức dư thừa không cần thiết, các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải cẩn thận điều chỉnh giọng điệu của mình. Cách họ nói và khai triển việc rút quân của Mỹ phải giúp duy trì lòng tin, cũng như các chuẩn mực và quy trình củng cố quan hệ của Mỹ với Âu châu. Các cơ quan hoạch định chính sách Mỹ, và trên hết là Tổng thống Mỹ, phải tiếp tục đưa ra những tuyên bố rõ ràng về sự ủng hộ của Mỹ đối với NATO, làm rõ rằng Washington muốn cải cách liên minh, chứ không phải chấm dứt nó.

 

 

HIỆN THỰC HÓA

Việc rút quân phải có thể dự đoán được và có trọng tâm, được tiến hành theo từng giai đoạn và chủ yếu nhắm vào lực lượng lục quân, và ở mức độ thấp hơn là lực lượng không quân. Trong giai đoạn đầu tiên, Washington nên rút các lực lượng Mỹ mà họ đã tăng cường đến Âu châu để đáp trả cuộc xâm lược Ukraine của Nga năm 2022. Vào đầu cuộc chiến, quân số Mỹ đã lên đến đỉnh điểm hơn 100.000 – một sự gia tăng lớn so với khoảng 60.000 quân đồn trú trên lục địa trước năm 2022. Kể từ đó đến nay, con số này đã giảm xuống còn khoảng 80.000. (Con số chính xác thay đổi liên tục do các lực lượng luân chuyển vào và ra khỏi Âu châu.)

 

Việc khai triển quân theo sau cuộc xâm lược của Nga là hành động thận trọng, vì chưa thể chắc chắn về ý định của Nga ngoài Ukraine, nhưng ba năm sau, rõ ràng là mối đe dọa về một cuộc tấn công sắp xảy ra của Nga là rất nhỏ. Do đó, chánh quyền Trump nên công bố kế hoạch bắt đầu rút quân ngay lập tức và dự kiến hoàn tất vào cuối năm 2026. Ngoài các lực lượng mặt đất này, phi đội F-35 của Mỹ dự kiến bắt đầu hoạt động vào mùa thu năm nay cũng nên tham gia đợt rút quân đầu tiên – Âu châu đã có rất nhiều tiêm kích cơ của riêng mình và đang chờ được giao thêm nhiều phi cơ hơn nữa trong vài năm tới.

Việc nhanh chóng bắt đầu giai đoạn rút quân vừa phải này sẽ giúp Âu châu duy trì đà tăng cường phòng thủ thông thường, mà không để lại những khoảng trống quá lớn mà Âu châu không thể lấp đầy một cách thực tế. Tuy nhiên, nếu Washington dừng lại ở đây, họ sẽ không làm đủ để thực sự chuyển gánh nặng quốc phòng sang Âu châu. Cùng với đợt cắt giảm đầu tiên này, chánh quyền Trump nên đặt ra một thời gian biểu rút quân rộng hơn với thời hạn là tháng 01/2029. Điều này sẽ cung cấp cho Âu châu thời gian tối đa để điều chỉnh mà không làm cho thời hạn trở nên quá mơ hồ khiến động lực tan biến.

 

Giai đoạn thứ hai này sẽ tạm thời giúp hoàn tất việc tái cấu trúc lực lượng Mỹ tại Âu châu, cắt giảm xuống còn khoảng một nửa so với hiện tại, và tái cân bằng để chủ yếu bao gồm lực lượng hải quân, một tỷ lệ nhỏ lực lượng không quân, và một lượng hạn chế các lực lượng lục quân. Để đạt được sự kết hợp lực lượng này, Mỹ nên loại bỏ lữ đoàn thiết giáp chiến đấu đã luân chuyển qua Đông Âu kể từ năm 2017, cũng như lữ đoàn không quân chiến đấu và lực lượng pháo binh Âu châu đã được khai triển từ năm 2018, và hầu hết các đơn vị phòng không tầm ngắn. Mục đích chính của các lực lượng này là để trấn an các đồng minh Âu châu và răn đe Nga. Họ đã làm rất tốt việc trấn an – có lẽ là quá tốt. Quân đội Âu châu có thể đảm nhiệm chức năng răn đe nếu được huấn luyện và trang bị đầy đủ. Và khi lực lượng Mỹ bị cắt giảm, nhân viên tại các trụ sở của Mỹ trên khắp Âu châu cũng có thể bị cắt giảm. Hai trong số sáu tàu khu trục Arleigh Burke mà Hải quân Mỹ đã điều đến Âu châu kể từ khi bắt đầu chiến tranh ở Ukraine nên được tái khai triển đến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nơi có nhu cầu lớn hơn. Hầu hết các tiêm kích cơ của Mỹ, như F-35 và F-16, hiện có mặt ở Âu châu cho mục đích răn đe cũng có thể được di dời, vì Âu châu đã có một lượng lớn phi cơ cao cấp và con số này vẫn đang tăng lên.

 

Chính quyền Trump cũng nên thảo luận với Pháp, Đức, Ba Lan, và Anh, những cường quốc quân sự mạnh nhất Âu châu, về tiềm năng bổ nhiệm một quan chức Âu châu làm Tư lệnh Tối cao Đồng minh Âu châu– chức vụ chỉ huy cao nhất của NATO. Theo truyền thống, vị trí quan trọng này thường do tư lệnh lực lượng Mỹ tại Âu châu nắm giữ, nhưng việc trao cho một vị tướng Âu châu trách nhiệm này sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển giao quyền lãnh đạo quốc phòng Âu châu. Một sĩ quan cấp cao của Mỹ có thể đảm nhiệm vị trí phó tư lệnh. Và trong một thời gian ngắn, việc bổ nhiệm các sĩ quan Mỹ vào vị trí cao nhất theo định kỳ cũng có thể giúp việc chuyển giao dễ dàng hơn.

 

Việc rút quân vẫn sẽ để lại một lực lượng dự phòng đáng kể cho lực lượng Mỹ tại Âu châu, bao gồm hai lữ đoàn lục quân, không quân hỗ trợ, và phần lớn lực lượng hải quân. Bộ chỉ huy và kiểm soát, lực lượng đặc nhiệm, lực lượng không gian, phòng thủ hỏa tiễn đạn đạo chiến trường và các yếu tố khác mà chỉ quân đội Mỹ mới có thể cung cấp cũng sẽ được giữ nguyên. Để tránh gây khó chịu không cần thiết cho các đồng minh, Mỹ cũng nên tiếp tục đóng góp một đợt khai triển nhỏ, chi phí thấp cho Lực lượng Hiện diện Tiền phương Tăng cường của NATO, một lực lượng giúp ngăn chặn một cuộc tấn công của Nga vào sườn phía đông của NATO. Các lực lượng còn lại sẽ bảo vệ các lợi ích quan trọng của Mỹ: bảo vệ Bờ Đông nước Mỹ, duy trì năng lực răn đe nguyên tử, và hỗ trợ hoạt động thu thập thông tin tình báo đẳng cấp thế giới của nước này.

 

Tuy nhiên, việc rút quân sẽ giải phóng một lượng lớn các đơn vị Không quân và Lục quân Mỹ, vốn có thể được tái khai triển đến các chiến trường khác hoặc giải thể khi trở về Mỹ, giúp tiết kiệm ngân sách cho đất nước. Hơn nữa, kế hoạch hai giai đoạn này không nhất thiết phải là dấu chấm hết cho việc tái cấu trúc lực lượng Mỹ tại Âu châu. Washington vẫn có thể tiếp tục cắt giảm quân trong những năm 2030 – hoặc, nếu điều kiện an ninh thay đổi, thì có thể điều động một số lực lượng quay trở lại lục địa già.

 

 

CHI PHÍ TỐI THIỂU, LỢI ÍCH TỐI ĐA

 

Như với bất kỳ thay đổi nào, chiến lược này cũng tiềm ẩn một số rủi ro. Mối nguy chính là quân đội Âu châu có thể không lấp đầy được tất cả những khoảng trống do việc rút quân của Mỹ tạo ra, khiến Âu châu dễ bị tổn thương hơn trước một cuộc tấn công của Nga so với hiện nay. Âu châu đã đạt được những tiến bộ thực sự trong tài trợ và điều phối quá trình tăng cường quốc phòng, nhưng công việc vẫn chưa hoàn tất và vẫn có thể bị đình trệ – đó là lý do tại sao việc duy trì động lực lại quan trọng đến vậy.

 

Nhưng xét cho cùng, rủi ro này rất thấp. Những điểm yếu quân sự hiện tại của Âu châu dễ bị phóng đại, và tương tự là mối đe dọa về một cuộc tấn công thông thường của Nga nhắm vào NATO. Một số quân đội Âu châu hiện có mức độ sẵn sàng chiến đấu thấp, nhưng lục địa này có rất nhiều quân – chỉ riêng các thành viên Liên minh Âu Châu đã có khoảng 1,3 triệu binh sĩ, gần bằng con số của Mỹ và nhiều hơn một chút so với 1,1 triệu của Nga. Sức mạnh không quân của Âu châu cũng rất tân tiến và có thể làm suy yếu đáng kể một lực lượng Nga cố gắng xâm lược một quốc gia Baltic hoặc Phần Lan. Các đồng minh NATO ở Âu châu đã khai triển các đơn vị lớn đến các nước Baltic, bao gồm cả binh lính Đức đồn trú vĩnh viễn ở Litva – điều không thể tưởng tượng được mười năm trước. Và bởi vì các lực lượng Âu châu sẽ chiến đấu ở thế phòng thủ nếu Nga tấn công, họ sẽ không cần nhiều lực lượng như kẻ xâm lược để duy trì lợi thế. Trong khi đó, Nga đã cho thấy họ có năng lực kém hơn so với những gì người khác từng lo sợ. Suốt nhiều năm, các quốc gia tiền tuyến từng lo ngại rằng một chiến dịch chớp nhoáng của Nga có thể lật đổ chính phủ của họ trước khi các đồng minh kịp đến hỗ trợ. Nhưng vào năm 2022, họ đã chứng kiến giả định đó sụp đổ ở Ukraine.

 

Chắc chắn, ngay cả khi Âu châu nhìn chung được trang bị đủ để ứng phó với một cuộc xâm lược tiềm tàng từ Nga, thì một số hệ thống mặt đất cụ thể của Mỹ vẫn khó thay thế. Ví dụ, hệ thống pháo binh tầm xa và hệ thống phòng không rất đắt đỏ, có nhu cầu cao, và khó sản xuất. Dù vậy, ngân sách mua sắm của Âu châu đang tăng lên hàng chục tỷ euro mỗi năm, điều này sẽ giúp việc mua sắm và khai triển các hệ thống này trở nên khả thi trong vài năm tới. Âu châu cũng có thể tăng cường kho võ khí của mình bằng các biện pháp khác ngoài việc thay thế từng phần, chẳng hạn như tăng cường năng lực tác chiến máy bay không người lái.

 

Mỹ nên làm hết sức mình để quá trình chuyển đổi này diễn ra suôn sẻ nhất có thể. Việc phác thảo kế hoạch rút quân giúp đơn giản hóa tính toán quốc phòng của Âu châu, bởi nó khiến tương lai trở nên dễ dự đoán hơn, từ đó giúp Âu châu suy nghĩ thực tế hơn về các mục tiêu mua sắm của mình. Và dù cuối cùng nhiều võ khí mới của Âu châu sẽ đến từ ngành công nghiệp của chính châu lục này, nhưng trong vài năm tới, họ vẫn cần mua rất nhiều võ khí từ Mỹ. Bộ Ngoại giao Mỹ nên ưu tiên Âu châu khi phê duyệt việc bán các hệ thống mà Mỹ dự định rút đi, và Bộ Quốc phòng cùng Tòa Bạch Cung nên hợp tác với các công ty quốc phòng Mỹ để xoa dịu sự phản đối của họ đối với việc chuyển giao kỹ nghệ cần thiết nhằm giúp ngành công nghiệp Âu châu nhanh chóng lấp đầy khoảng trống.

 

Sau cùng thì, một hệ thống phòng thủ nghiêm túc, được trang bị tốt của Âu châu sẽ là một biện pháp răn đe đáng tin cậy hơn đối với một cuộc tấn công của Nga so với một Âu châu tương đối yếu kém, luôn phụ thuộc vào Mỹ. Xét cho cùng, lục địa này luôn có lý do mạnh mẽ hơn để chiến đấu vì lãnh thổ của chính mình, so với Washington phải tham chiến từ bên kia đại dương xa xôi. Thời đại mà Mỹ có thể thoải mái thể hiện sức mạnh quân sự trên toàn thế giới đã qua từ lâu, và Washington không thể trì hoãn việc điều chỉnh để tránh rơi vào vòng xoáy chi tiêu quá mức và bị suy giảm tương đối. Việc cắt giảm quy mô lực lượng Mỹ ở Âu châu là một phần quan trọng trong quá trình tái cân bằng này. Với một kế hoạch rút quân rõ ràng và có trọng tâm, Mỹ có thể xoa dịu nỗi sợ của Âu châu về việc bị bỏ rơi và duy trì ảnh hưởng với các đồng minh của mình. Mỹ cần hành động táo bạo ngay bây giờ để duy trì động lực đã có ở Âu châu nhằm hiện thực hóa một hệ thống phòng thủ đáng tin cậy cho châu lục này, vì lợi ích của chính họ và của Âu châu.

 

 

Christopher S. Chivvis là Giám đốc Chương trình Ngoại giao Mỹ và là nghiên cứu viên cấp cao tại Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế.