Kỳ thi cuối môn Anh Văn năm ấy như một trận cuồng phong quét qua tuổi học trò. Cô giáo ra đề tưởng chừng đơn giản: “Kể lại một ấn tượng thời niên thiếu.” Lớp tôi xôn xao, ai cũng cắm cúi viết, như thể bao nhiêu năm tuổi thơ đang chen chúc ùa về trang giấy. Thế nhưng, cuối cùng, cả lớp hơn ba chục con người, chỉ ba đứa may mắn được chấm đậu – trong đó có tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật lạ lùng:

 

-Một anh bạn kể về tuổi thơ vắt sữa bò, mỗi ngày vắt tới 50 lít sữa. Đến lúc lấy vợ, lại vụng về đến mức khi chạm vào cơ thể vợ mình lại không biết phải làm gì với “cục cưng” ấy – câu chuyện ngây ngô nhưng chân thật.

-Một người khác thì từng bị gà đá đến ám ảnh, nên khi lớn lên đã trả thù bằng cách ăn thịt gà mỗi ngày.

-Còn tôi - chẳng có gì oanh liệt hay phi thường – chỉ có chiếc bánh trung thu nhỏ bé và một cây kim vô tình nằm trong nhưn bánh. Tôi vẫn nhớ rõ đêm trăng Trung thu năm ấy, tuổi nhỏ thèm bánh như khát nước. Vừa cắn miếng đầu tiên, vị ngọt chưa kịp tan nơi đầu lưỡi, một luồng đau nhói xé qua lợi răng, nứu răng. Kim đâm sâu, máu chảy tràn miệng. Tôi khóc ré, run rẩy nhìn chiếc bánh mình yêu thích biến thành nỗi sợ hãi. Và rồi, qua bao mùa trăng, nỗi sợ ấy hóa thành một ấn tượng kỳ lạ: tôi vẫn mê bánh trung thu, chỉ là khi nâng miếng bánh lên môi, tôi ăn từ tốn, chậm rãi, như nâng niu một bài học nhỏ về sự cẩn trọng. Ngày nhận lại bài thi, cô giáo cười: “Ba đứa này thi đậu, vì các em hiểu rằng ấn tượng không phải là một danh sách sự kiện rời rạc, mà là thứ chạm sâu vào ký ức và còn run rẩy khi được kể lại.” Năm ấy lớp tôi chỉ đậu 3 bạn, số còn lại trượt hết, phải thi lại lần 2. Tôi ôm tờ giấy có điểm số đậu, nhìn ra sân trường loang loáng nắng thu, bỗng thấy chiếc bánh trung thu năm nào lại thơm phức trong trí nhớ. Thì ra, chính miếng bánh tưởng như vô tình ấy đã đưa tôi qua kỳ thi, và cũng dạy tôi rằng: đôi khi, những điều nhỏ bé và đau nhói lại khắc sâu hơn cả những điều huy hoàng.  

Từ đó, mỗi mùa Trung Thu, khi chậm rãi cắt bánh, tôi lại bật cười một mình: “Ai mà ngờ, có ngày mình thi đậu nhờ… ăn bánh trung thu!” 

 

 

Trung thu 2025

Phong Nguyen MSc

 

 

 

 

 

2 người mang tên Cuội

 

Cuội cũng là một cái tên gọi như Hồng, Đào, Mận, Cường, Dũng, Mạnh. Chỉ một tên được nhiều bậc làm cha mẹ lại chọn đặt cho con, nên cộng đồng thường có chuyện trùng tên.

Trong văn hóa dân gian đất Việt, chúng ta có hai người tên Cuội hầu như không một ai mà không biết đến. Một người được gọi là “chú”, một người bị gọi là “thằng”. Nội sự khác biệt của “chú” và “thằng” đã nói lên hai bản chất khác nhau của hai con

 

 

Cuội mà được gọi bằng “chú” liên quan đến cây thuốc “cải tử hoàn sanh” hay sự tích “chú Cuội cung trăng”. Chuyện tích kể rằng, anh chàng tên Cuội vào rừng bất ngờ đụng đô với hổ dữ. Nhờ đó mà vô tình phát hiện ra cây thuốc cải tử hoàn sinh. Sau đó Cuội dùng cây thuốc quý này - cây đa thần - chữa bệnh cho vợ và dân làng. Chẳng may, một ngày nọ, vợ Cuội sơ ý quên lời chồng dặn đã phóng uế bên cạnh cây quý khiến cây bật rễ mà bay lên trời. Cuội chợt về đến, vội vàng bám vào cây để níu cây xuống. Nhưng cây đa thần cứ thẳng một mạch bay đến tận cung trăng; thế là Cuội phải ở tại đó mãi mãi.

 

Người tên Cuội thứ hai liên quan đến câu thành ngữ “nói dối như Cuội”. Cuội này vốn là một trẻ mồ côi, tuy thông minh nhưng láu lỉnh và rất khéo léo lừa dối người khác.

 

Cuội luôn bịa đặt điều này điều nọ để đạt được mục đích cá nhân, thậm chí giết trâu của chú rồi lừa chú rằng trâu đã chui vào bờ đê. Cuội trở thành điển hình cho mẫu người không trung thực, chuyên dối gạt để tư lợi.

 

Từ khi có hai người tên Cuội mà bản chấtkhác nhau, nên dường như cha mẹ nào cũng tránh đặt tên con là “Cuội”.

 

Ở đời, tâm lý người Việt nói chung thường hay “coi mặt đặt tên”. Một cái tên được cha mẹ đặt chắc hẳn mang một ước vọng sâu sắc nơi con yêu quý. Do vậy, bất luận mình có tên gì chăng nữa cũng nên trân quý miễn sao đừng như “thằng Cuội” mà bị châm biếm, cười chê!

 

 

(Dân Việt News)