Người Việt ở ba miền Nam khác nhau - chính điều đó đã làm giàu cho ngôn ngữ Việt. Nhưng trong câu thành ngữ “Ăn cháo đá bát”, dù ở miền nào câu đó vẫn là nguyên vậy - chỉ đề cập tới “bát” tuy rằng cùng một đồ dùng đựng cơm hay cháo còn được gọi là “chén”. Như vậy, câu thành ngữ này có thể xuất phát từ miền Bắc, miền Trung chăng?

 

Người Việt ăn uống lịch sự, cháo đựng trong bát và múc ăn bằng muỗng (hay thìa) cách từ tốn chứ không bưng bát lên miệng và húp thùm thụp.

 

Cháo của người Việt được nấu nhừ gạo nên dễ “nuốt” và có nhiều loại cháo. Cơ bản nhất là cháo trắng (chỉ có gạo còn gọi là cháo hoa), cháo đường (cũng là cháo trắng thêm vào chút đường cho dễ ăn), rồi đến cháo trứng, cháo đậu (đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ…), cháo ngô, cháo bì rợ; khá hơn thì cháo thịt (thịt heo bằm hay sườn heo), cháo gà; ngon hơn nữa thì có cháo lòng (tim, gan, phèo, lòng, huyết heo), cháo thập cẩm (nhiều thực phẩm khác nhau như nấm rơm, trứng cút, thịt và sườn heo, cá…), và sang phải là cháo bào ngư (cùng với nấm Đông cô)… Giá trị của cháo vô chừng, tùy đầu bếp khéo hay vụng; nhiều thực phẩm ngon, đắt tiền hay xuyềnh xoàng.

 

Trước đây (khoảng 70 năm), được ăn một bát cháo đối với người Việt là chuyện bất đắc dĩ; thường chỉ khi đau yếu (nhất là bệnh thương hàn) hay nhà túng thiếu - một chén gạo nấu ra được năm chén cháo trong khi nấu cơm chỉ được ba. Nhưng ngày nay, ăn cháo cũng là sở thích vì cháo đã được nấu cách cầu kỳ gồm thực phẩm đắt tiền, ngon miệng.

 

Câu “Ăn cháo đá bát” có từ xưa, nên có thể được hiểu những người đang ở thế ngặt nghèo, cơ cực được cho bát cháo là… mừng húm. Cháo chỉ giúp “khẩn cấp” lúc quá đói bụng, do vậy người “húp” xong cháo, tỉnh lại thì cầm bát ném đi, thậm chí còn đá cho văng xa! Chứ như ở ngày nay mà có chén cháo bào ngư, hẳn là ăn xong còn khen tíu tít.

 

Ăn là nuốt vào cho no bụng. Đá là bỏ đi cho khuất mắt. Cháo (ở đây là cháo trắng) là thực phẩm tạm thời, không đủ bổ dưỡng. Bát đựng cháo ở đây là đồ vật bằng sành, không phải bát vàng, bát ngọc nên khi bát được vét sạch, nó chẳng còn gì để giữ lại.

 

Thành ngữ “Ăn cháo đá bát” được nói ra và ghi lại từ những người tốt bụng giúp đỡ những người đang cơn đói và họ chứng kiến người ăn xong cháo thường có thái độ hất hủi, vô ơn… thuận tay ném bát hoặc ném rồi còn bồi thêm cú đá cho bát kia… tiêu tùng! Hành động này trên thực tế là của những người vong ơn, bội nghĩa; họ không biết đến “miếng khi đói bằng gói khi no”. Thậm chí, còn có người ăn xong cháo, quay lại nguyền rủa người đã giúp mình vì cho rằng… chẳng đáng gì!

 

Một khi chúng ta vội vàng giúp đỡ người tham lam thường là gặp “ăn cháo đá bát”. Đôi khi mình còn bị hại lại “ăn mật trả gừng”. Loại người bạc bẽo như vậy dễ “vắt chanh bỏ vỏ” hoặc “qua cầu rút ván”. Chúng ta giúp người cũng nên thận trọng. Chẳng hạn, thấy một người đứng ngoắc nhờ xe ở dọc đường, thương hại họ lúc giữa trưa nắng cháy da, ghé lại cho quá giang, dè đâu sau một khoảng đường bị cảnh sát chặn xét thì trên xe mình có gói thuốc cấm; hoặc bọn xấu của gã mình cho quá giang chờ sẵn trong bụi xông ra đoạt xe… Giúp người trong lúc họ “sa cơ lỡ vận” là tốt, nhưng an toàn cho mình vẫn phải nghĩ tới.

Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Jêsus kể chuyện rằng: "Có một người từ thành Giê-ru- sa-lem xuống thành Giê-ri-cô, lâm vào kẻ cướp, nó giựt lột hết, đánh cho mình mẩy bị thương rồi đi, để người đó nửa sống nửa chết. 31Vả, gặp một thầy tế lễ đi xuống đường đó, thấy người ấy, thì đi qua khỏi. 32Lại có một người Lê-vi cũng đến nơi, lại gần, thấy, rồi đi qua khỏi. 33 Song có một người Sa-ma-ri đi đường, đến gần người đó, ngó thấy thì động lòng thương; 34 bèn áp lại, lấy dầu và rượu xức chỗ bị thương, rồi rịt lại; đoạn, cho cỡi con vật mình đem đến nhà quán, mà săn sóc cho. 35 Đến bữa sau, lấy hai đơ- ni-ê đưa cho chủ quán, dặn rằng: Hãy săn sóc người nầy, nếu tốn hơn nữa, khi tôi trở về sẽ trả." (Lu-ca 10:30-35)

 

Thản nhiên và đơn sơ như Bờm vậy mà hay

 

 

Có ba nhận xét trong câu chuyện trên: (1) Chỉ người tốt bụng (không phân biệt màu gia, niềm tin, hay quen biết) là sẵn sàng giúp người lâm cảnh khó khăn; (2) Giúp cách tận tình, không cầu lợi; (3) Đặc biệt là người cần giúp đang lúc “nửa sống nửa chết” - không còn tỉnh táo để lừa gạt người giúp mình.

 

Người xưa đặt ra thành ngữ “Ăn cháo đá bát” có một “thâm ý” là giúp người khác chỉ là chén cháo chứ không phải là một bát “cơm gà cá gỡ”.

 

Trong truyện tích Lưu Bình - Dương Lễ, quan trạng họ Dương đãi bạn thất thế (vốn là người ơn và anh em kết nghĩa trước đây) một “bát mẻ đựng cơm hẩm, quảcà muối” nhưng lại âm thầm để vợ theo giúp. Sau khi đỗ đạt, Lưu Bình dẫu muốn vô ơn cũng không được chỉ vì sự giúp đỡ quá chân thành và sâu đậm.

 

Qua câu chuyện của Đức Chúa Jesus và Lưu Bình - Dương Lễ, giúp người thực là một ân đức, chẳng lo sợ mình bị “làm ơn mắc oán” nếu giúp đúng cách vào đúng hoàn cảnh với khả năng của mình cách thật lòng - vẫn an toàn cho mình. Chẳng lẽ ở đời chỉ toàn vô ơn, bất nghĩa sao? Con số này vẫn ít hơn số người biết ơn, đừng vì "con sâu làm rầu nồi canh" mà đánh mất lòng nhân hậu cao quý của mình./.

 

 

(Viết riêng cho Nam Úc & Dân Việt News)