Tại một quán điểm tâm, chung quanh chiếc bàn tròn kê gần cửa, năm ông đầu bạc ngồi chờ dịch vụ sau khi đã gọi cà phê phin, bánh mì giòn, trứng ốp-la cho bữa ăn sáng nay – ngày thứ Bảy ấm áp.

Đây là một nhóm bạn cao niên thân thiết. Họ gặp nhau trong đồng cảnh ngộ – đều là di dân đến xứ người vì muốn tự do, muốn đổi đời. Tuy tuổi tác ngang nhau, nhưng thực tế vẫn có ông già nhất mang tên Cả, ông trẻ nhất tên Út, và ba ông còn lại lần lượt được gọi là Trỏ, Giữa, Nhẫn. Coi mặt đặt tên nên dễ nhận dạng.

 


Ở nước nhà, mỗi ông mỗi miền, họ chưa hề gặp nhau một lần. Nay trên “đất khách”, được biết nhau đôi ba lần qua sinh hoạt cộng đồng, chùa chiền hay nhà thờ, hội thánh nên kết bạn. Dù không cư ngụ sát nách nhau, nhưng nhờ có xế hộp hoặc tàu điện, xe buýt, cứ hú một cái các ông tụ lại chẳng lâu lắt chi – thôi thì “bán anh em xa mua láng giềng gần” cũng tốt.

 


Từ ngày lập nên “Đội Ngũ” - nhóm 5 trự – các ông vui lắm. Ai nấy đều bảo rằng chính đội ngũ đã cứu mình ra khỏi buồn bực, thậm chí khỏi trầm cảm và tệ nhất là có ông định “bỏ quách xứ màu mỡ để trở về cố hương” nhưng nhờ nhóm mà ngừng ý định. Mỗi ông mang một tâm sự – nỗi niềm biết tỏ cùng ai! Ấy chính lý do đó mà họ gặp nhau ăn sáng vào buổi cuối tuần để tán chuyện gẫu chứ không lạm bàn quốc sự – xin làng nước hiểu cho.

 


Mỗi người mỗi tánh; gia cảnh, trình độ, sở thích khác nhau; công việc trước đây cũng khác nhau nữa. Có ông về VN như cơm bữa, có ông chẳng rời chân khỏi đất “căng ga ru” lấy 1 ngày, có ông đã đi du lịch Âu Mỹ mòn cẳng. Gặp nhau để “xả bầu tâm sự”. Các ông đã cam kết “Mỗi khi chúng ta ăn, uống ở ngoài, nhất định ăn, uống giống nhau” - đấy là sự bày tỏ đồng nhất và thiết hữu của “Đội Ngũ”. Các ông cũng cam kết khi tán gẫu, bàn chuyện, nhất định chỉ góp ý chứ không tranh luận để khỏi phân rẽ nội bộ hoặc làm mất tình hòa khí mà các ông quý hơn vàng, hơn các bà thích hột xoàn.

 

 

 

Dại vẫn hoàn dại

 

Sau hai năm nằm chờ tại trại tỵ nạn của quốc gia chuyển tiếp, anh B lúc bấy giờ 36 tuổi, được cứu xét cho định cư ở một đất nước có Anh văn là ngôn ngữ chính. Cái khổ của vượt biên cuối trào đã bắt anh phải trả một giá quá đắt. Người lúc này cằn cỗi, nước da đen như củ ấu. Anh tắm gội với nước phèn chua chát lần chót để ngày mai được đưa vào thành phố, rồi từ đó đáp máy bay đi quê hương thứ ba, lòng anh sung sướng như chưa bao giờ được sung sướng – có thể nói mình được sống lại, anh B thầm nghĩ.

 

 

Anh hít thở không khí tự do, ăn uống phủ phê nhưng bù lại anh cũng phải cật lực làm việc, chẳng thua gì cái thời còn nơi quê nhà “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”. Anh chuyên chú làm cả việc chính, lẫn việc phụ không màng đến giải trí, nghỉ ngơi. Kiếm được nhiều tiền là thứ mà anh đang cố gắng sở hữu; một phần tiếp trợ ba má và hai em gái bên nhà, một phần dành dụm để mua xe, tậu nhà sao cho kịp người đến trước anh cả gần một thập kỷ.

 

 

Năm năm mải miết lao động, anh quên ngày, quên tháng và quên cả lúc anh bước qua ngưỡng cửa của tuổi 40. Anh chợt nhớ lại anh còn độc thân. Anh thuộc tốp người cần cù – không tệ đến nỗi “cù lần” nhưng anh không ăn diện, không ăn chơi, không biết nịnh đầm theo kiểu mà anh nghe lóm được của Tây “Lady first”, nên chắc chắn anh chẳng xứng với đa số phụ nữ bôn ba ở hải ngoại; rớ vào họ bị mắng “đỉa đeo chân hạc” thì tủi hổ cho nam nhi chi chí lắm.

 

 

 

Cha mẹ và hai em thường nhắc “Bao giờ con về, bao giờ anh Hai về”, anh B cố chống chế “Dạo này hãng quá bận ra hàng, má ơi, em ơi… để khi được nghỉ dài hạn con sẽ về nghe ba má, nghe các em”.

 

 

Thế rồi, ngày trở về thăm cha mẹ, thăm em đã đến. Anh đóng hai thùng quà, anh mang tiền đô xếp dày cộm ví da và chưa kể một thẻ tín dụng có thể rút tiền tại Việt Nam. Nhưng dáng vẻ bề ngoài trông anh rất bình dị, mặc bộ quần áo thường không ra vẻ Việt kiều hải ngoại. Anh có ý xây lại nhà cho cha mẹ, giúp các em một số tiền đủ nộp học phí cho hết bậc đại học.

 

 

Nghe “thằng Hai nhà ông giáo” về, bạn bè của cha mẹ anh B đến chơi; hết người này đến người nọ, hai ba ngày không vãn khách. Số là, hơn chục năm từ ngày đi biệt, nhiều người nghĩ B đã làm mồi cho cá biển hoặc phu tù của bọn hải tặc Thái, Phi. Anh B sẽ lưu lại quê nhà ba tuần lễ. Tuần đầu quây quần bên cha me, em gái; tuần thứ hai và nửa tuần thứ ba đưa cả nhà đi du lịch theo tour riêng; những ngày còn lại của tuần cuối thì hủ hỉ ở nhà.

 

 

Trong số bạn bè của gia đình ông giáo, có hai gia đình muốn kết thân vì có con gái của họ còn phòng không lẻ bóng. Cô kém anh B mười tuổi tên Thảo, cô nọ nhích hơn hai tuổi. Nghĩa là cả hai vẫn còn ở hàng U30 mà anh B thì đúng 45. Cả hai đều cô được bố mẹ anh B ưng ý, nhưng việc lựa chọn là của anh, gia đình không ép hay thúc hối; bà mẹ chỉ khẽ nói bên tai con trai: “Con đã ngoài 40, không còn trẻ gì nữa, tính được chỗ nào thì tính, cho ba mẹ và hai em mừng”. Mặc dầu lần lượt gặp riêng từng cô qua buổi đi tham quan thành phố với nhau do chính anh mời, anh B không trả lời trực tiếp mẹ; chừng khi chia tay gia đình tại sân bay anh mới nói “Lần sau con về, con sẽ thưa với mẹ chuyện này”. Bà cụ nghĩ “Chắc bộ thằng Hai đã có chỗ nào?”.

 

 

Mười tám tháng sau, anh B về thăm quê hương lần nhì. Anh bất ngờ cho ba mẹ biết, anh muốn cưới “em Thảo làm vợ”. Anh có cảm tình với Thảo vì mến cái tên Thảo do ý nghĩ trong đầu “tên làm sao hẳn người là vậy”. Ba tháng sau, thủ tục giấy tờ hoàn tất, luật sư báo cho anh B biết có thể cưới và “đưa nàng lên không trung, vượt đại dương để oàn tụ theo dạng vợ chồng”. Anh B mừng - một sự vui mừng khó tả của người đàn ông ngoài 40 vẫn là “trai tân”.

 

 

 

 

Vợ chồng anh B sống bên nhau được ba năm rất hạnh phúc. Anh B trân quý vợ, không muốn vợ mệt nhọc nên chẳng cho vợ đi làm. Anh muốn vợ là đóa hoa “Dạ Thảo” để anh ngắm nghía, nâng niu. Cô Thảo không được chồng đưa đi giao tiếp bạn bè vì anh nói “người ngoài khó tin” nhưng ngày cuối tuần vẫn đi dạo phố, ngắm cảnh; trời nóng nực thì đi tắm biển; trời lạnh thì trùm mền, ăn bắp rang, xem phim trên Kênh Fox. Cô Thảo cũng không quá buồn vì thường xuyên trò chuyện về nhà qua điện thoại gài Zalo chẳng tốn tiền nên tha hồ thỏa thích; hơn nữa cô có gia đình của người anh con bác ở cách xa hơn ngàn cây số có hẹn ngày đến thăm (nhưng thực tình thì từ ngày cô Thảo đến xứ lạ… quê chồng vẫn chưa được gặp gia đình người anh chú bác này, mà cô cũng thấy đâu có gì cần gặp tuy đã nhờ bên nhà cho cô số điện thoại).

 

 

Thế rồi một hôm, anh B năn nỉ vợ “Mình có con nghe em?”. Cô Thảo lắc đầu và quyết liệt “Không. Chưa phải lúc”. Lời qua tiếng lại nhiều lần như vậy, đôi bên vẫn bất đồng. Anh B tức giận bỏ sang nhà bạn ở. Chờ hai ngày, chồng không về, cô Thảo gọi cho người anh con bác. Nghe lời ông anh khuyên, cô Thảo gom tóm quần áo dồn vào va-li và theo sự hướng dẫn, cô mua vé tàu điện dông tuốt xuống nhà ông anh.

 

 

Năm ngày sau anh B bò về nhà thì thấy nhà trống vắng. Vợ ra đi không để lại dù chỉ vài chữ. Gọi cho vợ nhưng không được bắt máy. Anh B lo cuống cuồng, cuối cùng phải gọi về bên nhà và mẹ anh đã dò được tin tức từ phía sui gia nên rõ mọi sự. Nhờ đó anh có số điện thoại của người bà con của vợ.

 

 

Chỉ nội thời gian chưa đầy hai tuần, cô Thảo đã “cứng cáp và vùng lên cách mãnh liệt”, cô từ chối về lại với chồng vì lý do “không muốn đẻ”. Cô nộp đơn xin ly dị rất mau vì người anh đã giúp cô Thảo có “kép” rất thích hợp với điều cô ta muốn. Ba bốn năm sống bên nhau, không con cái ràng buộc, chẳng có nghĩa lý gì. Cô Thảo chia tay nhẹ nhõm. Anh B đập quả đấm xuống bàn tức tối.

 

 

Hai năm sau đó, anh B về thăm cha mẹ. Một buổi chiều ra khu phố trong tỉnh nhà, anh B vào một gian hàng quần áo. Không ngờ, chủ nhân của cửa hàng này lại là “em Bông”, người mà sáu, bảy năm trước đã cùng anh dạo phố nhưng duyên nợ không thành. Cô Bông vẫn độc thân, nước da ngăm ngăm, dáng điệu năng động nhưng phảng phất chút đồng quê. Một ý nghĩ vụt đến trong đầu “Người mộc mạc vẫn thường chân chất, chung tình”, anh B quyết định đi tới. Lại một đám cưới diễn ra, có thể nói linh đình hơn đám cưới đầu; anh B kết hôn với cô Bông.

 

 

Anh B vẫn là người chồng có trách nhiệm và yêu vợ hết lòng. Rút kinh nghiệm, lần này anh   B để vợ giao tiếp bên ngoài, không quá khắt khe hoặc rào đón như với cô Thảo.

 

 

Lúc này, tuổi anh B đã bước vào hàng U50, anh lại ngỏ cùng vợ về sanh con đẻ cái. Không như Thảo, cô Bông vui vẻ gật đầu với điều kiện anh cho cô đi làm một năm để có thêm thu nhập vì khi có con phải cần. Anh B đồng ý.

 

 

Cô Bông làm tại tiệm nail. Chín giờ đến cửa tiệm, 6 giờ tối về nhà. Hai vợ chồng phụ nhau nấu ăn. Gia đình rất đầm ấm.

 

Một ngày nọ, cô Bông cho chồng biết, thầy bói nói sang năm sanh con thì rất hợp và có thể sanh quý tử. Anh B mừng ra mặt, ôm chặt vợ hôn lấy hôn để. Anh lên lịch tính toán, làm thế nào để sanh con cho đúng tháng, đúng năm như thầy bói nào đó nói với vợ.

 

 

Thời gian tiếp đó, cô Bông đi làm thường về trễ. Anh B gạn hỏi thì vợ nói là có chị bạn cùng làm nghỉ việc nên chị em rủ đi ăn chung. Cứ ba, bốn ngày lại như thế một lần. Vẫn cứ luận điệu cũ được vợ nói ra, anh B không còn tin được. Anh định sẽ âm thầm theo dõi vợ.

 

 

Anh mới chỉ nghĩ sẽ theo dõi vợ và chưa thực hiện, thì một buổi về làm, cô Bông không cùng chồng nấu ăn, cô tằm rửa, ăn mặc đẹp, xịt dầu thơm nức mũi. Cô bảo anh B dùng cơm một mình, còn cô có hẹn cùng bạn dự tiệc mừng cửa hàng nail đã sống được tới năm thứ 10. Anh B không phản đối vì lý do ăn mừng 10 năm là phải. Nhưng ngay khi cô ra khỏi cửa, anh đã theo sát ngay cách kín đáo.

 

 

Anh B chết điếng cả người, khi thấy vợ mình được một gã đàn ông trẻ trung, ga lăng, ân cần mở cửa xe dìu cô ta lên. Họ chạy thẳng đến một khách sạn hạng sang. Anh B tức tốc xông vào khách sạn và yêu cầu tiếp tân cho gặp hai người vừa khuất sau cánh cửa cầu thang máy. Tất nhiên anh không được toa6i ý, họ bảo anh muốn gì thì ngồi ghế ngoài sảnh tiếp tân mà chờ, nếu làm ồn họ mời cảnh sát.

 

 

Anh tức “ói gan”, câm lặng ngồi chờ. Một tiếng rưỡi đồng hồ sau thì họ ra. Họ dìu nhau âu yếm. Không đợi lâu hơn, khi cặp đôi chớm ra tới cửa, anh ông lại túm tay vợ, anh nói nghẹn trong cổ:

 

“Thế này là thế nào?” Cô vợ tỉnh táo: “Em sẽ giải thích cho anh, giờ thì đừng làm em bẽ mặt, và đừng ồn ào ở đây”. Người đàn ông trẻ, dường như trẻ hơn vợ anh vài tuổi, cuối xuống hôn trên má Bông và bước đi.

 

 

Chị Bông thản nhiên theo chồng ra xe và về nhà.

 

 

Vừa mở cửa, anh B đã muốn “ăn tươi nuốt sống vợ”, nhưng thấy vợ điềm tĩnh, không phản ứng cách giận dữ, nên anh diu lại để vợ giải thích. Cô Bông cho anh biết, muốn sanh con quý tử, muốn hôn nhân của anh và cô bên vững, muốn anh không yểu số thì chính cô phải được quý nhân khai thông theo như lời thầy bói. Họ đã tìm cho cô một quý nhân và chuyện này phải diễn ra đúng một tuần trăng!

 

Anh B chết đứng! Nếu có đứa con tượng hình, thì nó là còn mình hay con “quý nhân”?

 

Anh B không chịu được. Anh thấy mình đã khôn như vậy nhựng vẫn còn dại. Người ta thấy chị Bông bỏ đi, anh B lui thủi nán lại căn nhà đó đôi ba tháng chờ khi bán xong rồi cũng từ giã.

 

 

Sau này, có người gặp lại anh B, lúc đã gần chạm ngưỡng cửa 60, anh cho biết “chẳng vợ con gì cả, chờ lãnh được tiền hưu sẽ về quê hương phụng dưỡng cha mẹ già”. Anh lắc đầu, buông tiếng thở dài “Số mình là vậy”.

 

 

Ông Cả, trong nhóm 5 ông bạc đầu, kể câu chuyện trên cho bốn ông khác nghe, ai nấy cũng xót xa, thương cho một con người thật thà, hiền lương, yêu vợ và thích có con nhưng phần số không được vậy, đành chịu. Đố ai thoát khỏi định mệnh do ông Trời sắp xếp sẵn! Giờ đây, những ai thất bại đường đời hãy suy gẫm “Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa.” (Ma-thi-ơ 6:33), xem rồi sự thể có thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp và sự mong đợi của mình chăng?

 

 

 

 

 

(BBT Báo Nam Úc savietnews.com.au)