CẢM HỨNG ĐỂ VIẾT TIỂU THUYẾT “CU CHÍ – CU PHONG” LÀ TỪ NHÂN VẬT JD VANCE
Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân vi cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.
Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.
Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong.
Cu Chí - Cu Phong
----------------------------------------------------------------------------
Phần 9.2: Làm việc tại Trung tâm Khuyến Nông
Giã từ Cần Giờ, tôi thi vào chương trình Cao học ngành Crop Sci- ence tại Đại học Nông Lâm. Để phù hợp với chuyên môn và việc học, tôi phỏng vấn và được nhận vào Trung tâm Khuyến Nông, phân công về Trạm Khuyến Nông Liên quận Gò Vấp – Quận 12. Nhiệm vụ chính của tôi là chuyển giao tiến bộ khoa học nông nghiệp cho bà con nơi đây.
Ngày ấy, Quận 12 vẫn còn như một miền quê: đường đất quanh co, ổ gà ổ vịt. Mùa nắng bụi đỏ phủ kín mái nhà, mùa mưa thì lầy lội trơn trượt. Vườn tược xanh mướt, kinh tế nông nghiệp chủ yếu dựa vào bò sữa, cây kiểng, mai vàng, hoa lan, rau củ quả. Đây cũng là vựa hoa kiểng lớn mỗi dịp Tết đến xuân về.
Công việc của tôi là đứng lớp giảng dạy kỹ thuật canh tác, phòng trị dịch bệnh, trực tiếp thực hiện mô hình trình diễn để bà con có thể áp dụng trên chính ruộng vườn của mình. Càng đi sâu vào thực tế, tôi càng thấm thía câu nói dân gian:
"Nhất sĩ nhì nông, Hết gạo chạy rông, Nhất nông nhì sĩ."
Thật vậy, tiềm lực của nông nghiệp vô cùng lớn, và khát vọng trong tôi ngày càng cháy bỏng: thay đổi hình tượng người nông dân Việt Nam. Tôi không muốn họ chỉ mãi là “chân lấm tay bùn”, mà phải trở thành:
- một nhà khoa học ngay trên đồng ruộng của mình,
- một thương gia trong quản trị kinh tế,
- và một nhà ngoại giao khi đưa sản phẩm ra thị trường.
Sứ mệnh của tôi là: gia tăng hiệu suất sản xuất trên từng mét vuông đất. Sau này, khi lập Công ty Vidan, tôi vẫn chọn sứ mệnh ấy làm kim chỉ nam.
Tôi lăn lộn khắp ruộng vườn, đến mức nhớ mặt từng nhà nông. Cái tên “Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong” dần trở thành “thương hiệu” trong nghề. Tôi còn mở thêm vài hecta trồng lan Dendrobium và hoa mai. Mô hình lan cắt cành của tôi được xem là lớn nhất vùng, nhanh chóng lan tỏa, biến Quận 12 thành vùng nguyên liệu cung cấp hoa cắt cành cho cả Sài Gòn. Chỉ riêng vườn lan, mỗi tháng tôi lãi 50 – 70 triệu đồng.
Thầy tôi – Tiến sĩ Nguyễn Văn Kế – thường nói:
"Cậu là người làm khoa học, nhưng biết kết hợp thương mại để tạo ra giá trị. Đó là điều hiếm lắm!"
Từ lợi nhuận ấy, tôi mua được căn nhà đầu tiên – trị giá gần 100 cây vàng. Sau này, căn nhà đó trở thành văn phòng khởi nghiệp của Vidan, nơi quy tụ hơn 160 nhân viên.
Tuy nhiên, càng nổi bật, sự đố kỵ từ đồng nghiệp càng gay gắt. Một số người tìm cách điều chuyển tôi sang vùng khác, với chức vụ mới: Trưởng Trạm Nghiên cứu Khoa học và Thực nghiệm Nhị Xuân, nơi giáp ranh Long An, được mệnh danh là “đất chết” vì phèn mặn, cây cối khó mà sinh trưởng.
Ngày bàn giao, Kỹ sư Nguyễn Văn Thơ – người tiền nhiệm – chỉ tay vào vài dụng cụ cũ kỹ và một khẩu súng CKC cùng 50 viên đạn rồi nói:
"Đây là tất cả những gì còn lại. Anh nhận bàn giao nhé!"
Tôi ký biên bản, nhưng riêng khẩu súng, tôi mang trả lại cho tổ chức.
Công việc ở Nhị Xuân bắt đầu từ con số gần như không. Tôi chỉnh đốn nhân sự, cải tạo cơ sở vật chất, biến 10 ha đất bỏ hoang thành nơi khảo nghiệm phân bón cho nhiều công ty, gây dựng lại hệ thống nhà kính, nhà lưới. Dần dần, Nhị Xuân từ “đất chết” trở thành một trung tâm dịch vụ khoa học sôi động. Rất nhiều sinh viên Đại học Nông Lâm đến đây thực tập, nhiều đề tài khoa học được Sở Khoa học – Công nghệ tài trợ.
Từ đây, hợp tác với doanh nghiệp, chúng tôi cho ra đời Công ty Tribat – chuyên sản xuất đất sạch. Cánh đồng nha đam rộng 10 ha cũng hình thành, trở thành nguồn thu ổn định cho cả tập thể. Người ta bắt đầu gọi tôi bằng biệt danh vui: “Nhà khoa học Lencuocki” – hàm ý từ “cái len, cái cuốc, cái ki” đã làm nên thành quả bất ngờ.
Thành phố trao tặng tôi danh hiệu “Công chức viên tiêu biểu” với bốn chữ: “Trung thành – sáng tạo – tận tụy – gương mẫu”.
Ảnh hưởng trong nghề ngày càng lớn, tôi được mời giữ chức Trưởng phòng Nông nghiệp thuộc Sở Nông nghiệp khi tuổi còn rất trẻ. Nhưng qua dò hỏi, tôi biết rằng nhiều người đã chờ vị trí ấy suốt 20 năm. Tôi nhận ra, môi trường công quyền này không phải nơi tôi thuộc về.
Thế là, ở đỉnh cao sự nghiệp, tôi viết đơn xin nghỉ, chỉ để lại một câu ngắn gọn:
"Xin ra ngoài, để có cơ hội giúp được nhiều người hơn."
Kết thúc 10 năm làm công tác chuyển giao và thực nghiệm khoa học, tôi bước sang một hành trình mới: khởi nghiệp. Trước khi lập Vi- dan, tôi đã thử nghiệm thành công sản xuất giống dứa Cayenne bằng phương pháp riêng, tạo nên lợi nhuận khổng lồ và gây tiếng vang lớn.
Nhưng mọi sự thịnh suy rồi cũng qua đi… Và đến ngày 12/09/2007, Công ty Vidan chính thức ra đời – mở ra một trang mới đầy thăng trầm cho cuộc đời tôi.
Mỗi bước đi ở Cần Giờ như một nốt nhạc trầm trong bản đời tôi. Nặng nhọc, mặn chát nhưng cũng đong đầy trải nghiệm, để rồi khi nhìn lại, tôi thấy mình đã lớn lên nhiều hơn trong gian khó. Tôi rời nơi ấy với đôi bàn tay chai sạn, nhưng trong tim lại mang theo một vốn sống dồi dào. Chính hành trang ấy sẽ là điểm tựa để tôi vững vàng hơn khi quay lại thành phố, tiếp tục cuộc hành trình chinh phục ước mơ.
Những tháng ngày ở Trung tâm Khuyến nông không chỉ cho tôi trải nghiệm quý báu trong việc tiếp xúc với bà con nông dân, mà còn mở ra cơ hội tự mình đứng ra sản xuất và kinh doanh dứa cayene. Từ một vài luống nhỏ ban đầu, tôi học cách tính toán chi phí, quản lý lao động, tiêu thụ sản phẩm và xoay vòng vốn. Đó không chỉ là công việc mưu sinh, mà còn là bài học đầu tiên về quản trị sản xuất – kinh doanh. Nhờ vậy, tôi mới tích lũy được căn cơ tài chính và kinh nghiệm thực tiễn, để rồi sau này đủ tự tin gây dựng Công ty Vidan – một giấc mơ tưởng chừng xa vời đối với một cậu thanh niên nghịch cảnh nơi quê nghèo.
Chương 10
THÀNH LẬP CÔNG TY VIDAN
Phần 10.1: Sản phẩm polymer ái nước BIOWATER và Công ty VÌ DÂN ra đời
Một ngày hè năm 2006, tôi lái xe dạo chơi trên huyện Cư M’gar, Đắk Lắk. Trong lòng mơ hồ mong tìm đâu đó một cô gái miền sơn cước để kết bạn bốn phương. Nhưng thay vì gặp gỡ duyên lành, tôi lại bắt gặp cảnh hai bác nông dân đang đánh nhau kịch liệt, bất phân thắng bại.
Tôi dừng xe, cầm theo gói thuốc lá Con Ngựa và chiếc bật lửa Bic, bước lại gần:
- Xin hai bác dừng tay, không nên sát phạt nhau như thế này!
Khi có người thứ ba xuất hiện, không khí dịu xuống đôi chút. Tôi khe khẽ hỏi:
- Vì sao hai bác lại đến nông nỗi này? Hay hút điếu Con Ngựa cho bớt nóng?”
Bác trẻ hơn, tầm ngoài 30 tuổi, cất tiếng trước:
- Chú biết đó, tui với ổng hùn vốn khoan cái giếng này, rồi thỏa thuận chia nhau: mỗi người được bơm nước tưới cà phê một ngày. Thế mà ổng giành liền hai ngày. Cà phê nhà tui thì chết khô. Chú coi có công bằng không?”
Bác kia vội xua tay:
- Đâu có! Tui tính toán kỹ rồi. Nắng hạn dữ vậy, mỗi người tưới một chút thì chẳng thấm vào đâu, cây cũng chết khô thôi. Chi bằng tưới đẫm 2–3 ngày cho cây kịp hồi, rồi rút giếng cho người kia. Nước ngầm mà, nó tự nhỉ ra, lo chi hết!”
Người này chưa dứt lời, bác kia đã gắt:
- Ông khôn quá ha! Lỡ giếng cạn thì lấy gì tưới nữa? Cứ giữ như thỏa thuận ban đầu đi, mỗi người một ngày!
Hai người cứ giằng co cái mô-tơ bơm nước.
Tôi lặng lẽ quan sát. Thật khó để phân định ai đúng, ai sai. Ở đây, chỉ có “phù hợp hay không phù hợp” chứ chẳng thể nói đúng – sai tuyệt đối.
Tôi châm ba điếu thuốc Con Ngựa, rồi từ tốn nói về khoa học canh tác cà phê, về tình làng nghĩa xóm, về sự chia sẻ trong lúc khó khăn. Lạ thay, sau vài lời ấy, không khí dịu xuống. Có lẽ đây là lần đầu tiên tôi đứng ra làm người trung gian hòa giải một cuộc chiến… vì nước.
Rời đi, trong lòng tôi cứ bâng khuâng. Nước ngọt – vốn quý như thế, sao lại để trở thành nguyên nhân chia rẽ tình xóm làng? Sao người nông dân phải đánh nhau chỉ vì nước tưới cà phê? Tôi chợt thấy xót xa: mình là thạc sĩ nông nghiệp, mà ngay cả chuyện nước tưới cho nông dân cũng chưa giúp được gì!
Tôi đem ý tưởng “giữ nước trong các túi nilon lớn để trữ mưa, phục vụ tưới mùa khô” bàn với bạn thân – Thạc sĩ Đặng Ngọc Hoàng. Nhưng anh lắc đầu:
- Khi cà phê có giá, nông dân ganh ghét, họ sẽ chọc thủng túi nước ban đêm thì công sức coi như bỏ.”
Ý tưởng ấy khép lại.
Tôi lại trăn trở: phải chăng nên giữ nước bằng một hợp chất hữu cơ nào đó? Từ đó, một dự án mới manh nha: “Nghiên cứu hạt polymer ái nước để giữ nước trong mùa khô hạn”. Anh Hoàng ủng hộ và sẵn sàng góp vốn.
Ở đời, quả đúng “giàu vì bạn, sang vì vợ”. Tôi mang ý tưởng này bàn với em Trần Hữu Nghị – thạc sĩ hóa học, và Thạc sĩ Trần Nhật Tân – thầy tôi, chuyên gia về máy móc.
Chúng tôi lên kế hoạch. Dự án cần 1.3 tỷ đồng tức khoảng 130 cây vàng 9999 – một con số khá lớn lúc bấy giờ. Nhưng với “tay hóa học” của Nghị và “tay cơ khí” của thầy Tân, tôi tin ý tưởng sẽ thành công.
Cơ chế là dùng nhóm –OH của tinh bột phản ứng với –COOH của acid acrylic, trùng hợp bằng H₂O₂, tạo thành hạt polymer ái nước, có khả năng trương nở đến 400 lần.
Nghe thì gọn, nhưng để phản ứng xảy ra cần một xúc tác đặc biệt và một máy chuyên dụng. Thầy Tân mất hơn nửa năm mày mò, “lên bờ xuống ruộng” mới hoàn thiện được.
Tôi và Nghị thuê phòng thí nghiệm, bắt đầu thử nghiệm. Máy quay cá từ, máy trộn bột siêu nhanh (bì cần trộn 6 loại bột trong thời gian cực ngắn 20 phút), máy chưng cất hồi lưu, bơm oxy già, máy cắt polymer… dây chuyền có đến 37 mô-tơ, tiêu tốn 875 triệu đồng.
Sáu tháng trời, chúng tôi thức trắng nhiều đêm, khi thì máy chạy, khi thì hỏng, phản ứng lúc được, lúc không. Có khi sản phẩm hư, Nghị khóc. Thầy Tân cũng khóc – 40 năm kinh nghiệm, chẳng lẽ lại gục ngã ở dự án này?
Nhưng rồi, bằng nỗ lực không mệt mỏi, hạt polymer ái nước đã ra đời. Hạt nhỏ như đầu đũa, khi hút nước thì trương lớn, phình to bằng ngón tay cái người trưởng thành, giữ nước 35 ngày rồi trở về trạng thái ban đầu.
Chúng tôi mang sản phẩm đi khảo nghiệm ở các vùng khô hạn, công ty cây xanh đô thị, Viện Lâm nghiệp miền Nam. Kết quả đúng như kỳ vọng: sản phẩm giữ nước và chống hạn cực kỳ hiệu quả.
Thế là sản phẩm polymer ái nước với tên thương mại là BIOWATER ra đời. Và để hợp pháp hóa việc kinh doanh, Công ty TNHH Vì Dân (VIDAN) chính thức thành lập ngày 12/9/2007.
Công ty Vì Dân ra đời như thế – bắt nguồn từ tình thương nông dân và trách nhiệm của người làm khoa học với nghề nông: làm sao để người nông dân có nước tưới, tiết kiệm nước, và không còn phải đánh nhau vì nước.
Slogan của chúng tôi ghi trên sản phảm: “Lời hứa của một trí nông” (A Culturist Commitment).
Đây là sản phẩm khoa học đầu tiên tại Việt Nam được sản xuất công nghiệp từ một doanh nghiệp tư nhân siêu nhỏ. Sau đó, công ty còn dự định mở rộng sản xuất tã lót cho trẻ, băng vệ sinh cho phụ nữ, đồ chơi trương nước cho trẻ em… Nhưng không phải giấc mơ nào cũng thành hiện thực. ª
(Xem tiếp tuần tới)