Cu Chí – Cu Phong là tiểu thuyết tự truyện. Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong, một nhà khoa học, một doanh nhân vi cuộc đời trải qua nhiều nghịch cảnh, đã không đầu hàng mà vươn lên bằng đôi chân trần. Nhân vật Cu Chí – Cu Phong là hình ảnh ẩn dụ về chính tác giả: một đứa trẻ bị định kiến vùi dập, nhưng không sờn lòng, nản chí mà tận dụng năng lực và sức phấn đấu liêm chính giữa dòng đời sỏi đá để trở thành người kiến tạo giá trị cho xã hội.
Theo tác giả, tiểu thuyết là một hành trình thật – không tô vẽ – đầy nước mắt, nghị lực, và khát vọng sống. Nhân vật là chủ thể, không đổ lỗi cho thời thế, không tìm cách biện minh nhưng xác định giá trị và vì giá trị mà bươn tới để đạt lấy giá trị.
Ông muốn chia sẻ một bài học Phong để hiểu rõ tâm tình của ông sống động cho những ai từng bị bỏ trước khi khám phá các bí kíp thành lại phía sau, nhưng vẫn ước nguyện đạt của ông được trình bày rõ ràng, và có ý chí để làm chủ chính cuộc mạch lạc nhưng không kém phần thực đời mình. Hãy đọc Cảm hứng và Lời Tự sự của Thạc sĩ Nguyễn Văn Phong để hiểu rõ tâm tình của ông trước khi khám phá các bí kíp thành đạt của ông được trình bày rõ ràng, mạch lạc nhưng không kém phần thực tiễn, sôi động trong tác phẩm Cu Chí – Cu Phong.
(Xem lại kỳ 10)
Cu Chí - Cu Phong
----------------------------------------------------------------------------
CHƯƠNG 8
CUỘC SỐNG SINH VIÊN
Phần 8.1: Rời quê nhập học
Buổi sáng hôm ấy, trời Ngãi Giao trong veo, nắng đầu thu trải vàng trên những mái nhà nhỏ và cánh rừng cao su xanh mướt, thẳng tắp như trong bộ phim “Trời xanh qua kẽ lá” mà tôi từng xem. Tôi khoác chiếc ba lô cũ – bên trong chỉ có vài bộ quần áo, mấy quyển truyện và ba chỉ vàng gói kỹ trong túi áo trong. Con đường từ Ngãi Giao ra bến xe hôm nay bỗng như dài hơn mọi ngày, mỗi bước chân đều mang theo một phần tuổi trẻ và ký ức.
Chiếc xe khách lăn bánh, để lại phía sau những mái nhà đỏ quạch màu đất bazan và tiếng cười nói quen thuộc của những buổi tối dạy học. Tôi ép mặt vào cửa kính, nhìn bóng quê xa dần, lòng vừa háo hức vừa chộn rộn một nỗi lo mơ hồ: không biết nơi mình sắp đến sẽ dang tay chào đón hay thử thách mình đến tận cùng.
Thực lòng mà nói, ngày nhập học ấy, lòng tôi buồn xao xác. Xuất thân từ miền quê, từng trải qua những ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, tôi đã ngán ngẩm cảnh dầm mưa dãi nắng. Vậy mà nay lại vào học Đại học Nông Lâm – nơi gắn liền với ruộng đồng, chăn nuôi, cây trái… Nhưng tôi không còn lựa chọn nào khác. Đây là trường có học phí thấp nhất trong số những trường tôi thi đậu, nên tôi chọn chỉ vì điều kiện tài chính chứ không phải theo sở thích.
Trường nằm cách trung tâm Sài Gòn khoảng 20 km về phía Thủ Đức. Không có cổng hoành tráng, chỉ có tảng đá khắc chữ “Đại học Nông Lâm” ngay sát Quốc lộ Đại Hàn. Khuôn viên trường rộng 64 ha, nằm khuất trong rặng tràm bông vàng và rừng điều lộn hột, trên một ngọn đồi thoai thoải. Giảng đường chính hình chữ U – một trong bảy công trình nổi tiếng do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế. Ngày ấy, trên nóc giảng đường còn ghi câu “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Mãi sau này, khi thầy Trịnh Xuân Vũ lên làm hiệu phó, thầy cho thay bằng dòng chữ “Đại học Nông Lâm”. Theo lời thầy kể, việc thay chữ phải thực hiện vào ban đêm để tránh sự phản đối, vì thời ấy không ai dám gỡ bỏ lời của vị lãnh tụ vĩ đại của thế chế đương thời.
Khuôn viên trường trầm mặc như một chứng tích đã đi qua bao đổi thay của thời cuộc.
Ngày nhập học, tôi đóng 50% học phí học kỳ I, 300,000 đồng. Số còn lại, tôi mua chiếc xe đạp 120,000 đồng, một rương gỗ để đựng tư trang, chiếc cassette nhỏ, quạt, chiếu, mùng, mền. Tôi được phân vào phòng 9C – Cư xá A, Đại học Nông Lâm. Đó là chỗ ở đầu tiên trong đời sinh viên. Sau đó, khi tiền vơi dần, tôi chuyển sang Cư xá C, rồi vào ở Văn phòng Đoàn, và cuối cùng là “chọn” Nhà Xác của trường làm nơi cư ngụ lâu dài cho đến hết những năm đại học.
Hồi ấy, tất cả sinh viên Ban B học chung chương trình Khoa Cơ bản, sau hai năm mới phân ban chuyên ngành. Phần lớn sinh viên Ban B là những học sinh khá giỏi thời phổ thông, chủ yếu đặt mục tiêu thi Y, Dược, Nha, hoặc ít nhất là Đại học Tổng hợp. Trường Đại học Nông Lâm chỉ là lựa chọn “bất đắc dĩ” khi trượt các trường khác. Nói đến “làm ruộng, đi rừng, chăn nuôi…” thì bất cứ đứa trẻ miền quê nào cũng e ngại. Thời chúng tôi, câu cửa miệng là “Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa”, còn Nông Lâm chỉ là trường dự phòng. Tôi cũng vậy – dừng chân ở đây chỉ vì học phí thấp và túi tiền eo hẹp.
Nhưng khi bắt đầu học, tôi mới thấy những gì mình từng làm trên đồng ruộng chỉ là “vọc nước, nghịch bùn” cho vui, chứ chưa phải “biết nghề” hay “chuyên nghiệp”. Chúng tôi được học giải phẫu học thực vật, định danh loài, sinh lý sinh hóa của cây, các loại đất và quá trình phú dưỡng, xói mòn, chai lì. Học về môi trường, côn trùng học, phân loại và vòng đời từng nhóm côn trùng. Học về các nhóm cây trồng, biện pháp canh tác, nhân giống, lai giống, giữ giống. Học vi sinh vật và tác động của chúng tới đất và cây… Những kiến thức ấy cuốn hút tôi, biến cảm giác ngán ngẩm ban đầu thành sự say mê.
Tôi nhận ra: bất cứ ngành nào, nếu đạt đến chuyên môn xuất sắc, đều có thể đưa người ta đến thành công – như ông bà đã đúc kết “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Sau này, khi đi nhiều nơi trên thế giới, tôi thấy ở bất cứ nghề nào cũng có những chuyên gia đạt đến cảnh giới cao trong lĩnh vực của họ.
Năm 2016, tôi sang Úc du lịch, tham dự một buổi đấu giá bộ sách khoa học xuất bản 113 năm trước, do một nhà khoa học người Anh biên soạn khi sang Úc nghiên cứu và phân loại thực vật. Ông phân loại được 45 loài, nhưng không may qua đời tại đây. Bộ sách gia đình ông giữ gìn được đấu giá để làm từ thiện. Giá quá cao, nên mọi người góp tiền mua theo từng trang. Tôi mua ba trang viết về loài hoa Waratah – với hình vẽ chi tiết lá, hoa, quả, tô màu bằng bột đá tự nhiên. Nhìn bức vẽ, tôi thấy sự tận tụy, góc nhìn khoa học sắc bén và tính nghệ thuật của một họa sĩ bậc thầy. Tôi trả 2,700 đô-la cho ba trang ấy, đóng khung treo ở nơi làm việc, như một lời nhắc: đạt đến cảnh giới trong chuyên môn là con đường gần như chắc chắn dẫn đến thành công.
Bảy năm sau, thật bất ngờ, chính quỹ đầu tư Waratah – trùng tên với loài hoa ấy – đã bảo trợ tôi nhập cư Úc. Khi đến đây, tôi mới biết Waratah chính là quốc hoa của bang New South Wales.
Và như một vòng tròn khéo sắp đặt của số phận, từ những bước chân rời quê năm ấy, tôi không ngờ rằng hành trình học tập ở ngôi trường “chỉ chọn vì học phí thấp” lại trở thành cánh cửa dẫn mình tới những cơ hội lớn lao, thành công rực lửa, mà khởi đầu chính là những ngày đầu bỡ ngỡ trong ký túc xá Nông Lâm.
Phần 8.2: Cuộc sống sinh viên
Tôi là một sinh viên năng nổ trong mọi hoạt động: chăm học, chăm làm, và cũng không quên… chăm chơi. Điều đặc biệt, ít ai hay rằng, những năm học đại học, tôi còn mang theo đứa em gái nhỏ lên Thủ Đức học may. Cuộc sống khốn khó ấy tôi hiếm khi chia sẻ với ai. Sau này, khi chính tôi viết lại những góc khuất đời mình, nhiều bạn cùng khóa mới biết tôi đã trải qua muôn vàn gian truân, nhưng rất bình thản. Khổ là, khi túng thiếu, mượn tiền ai cũng bảo, tôi đùa giỡn, chứ đâu thể túng thiếu. Bởi lẽ, món gì tôi cũng chơi được như đàn, hoạ, thơ văn, diễn kịch, hát hò, các loại cờ như cờ vua, cờ tướng ... đại khái là các món thuộc tuýp của con nhà khá giả mới đủ tiền tiếp cận.
Người ta đi học thường sợ không thuộc bài, còn tôi đi học lại sợ… đói. Thời gian đến lớp ít hơn thời gian đi làm. Thủ Đức hồi ấy còn nghèo, kiếm được việc làm để nuôi bản thân đã khó, huống chi cưu mang thêm một đứa em. Mỗi ngày trôi qua là một ngày nơm nớp lo hết tiền. Giá ký túc xá cũng tăng theo thời thế. Tôi từ KTX A (tốt nhất) chuyển sang KTX C (tệ nhất), rồi cuối cùng “chọn” Nhà xác của trường làm nơi cư ngụ dài hạn.
Nghe thì ghê rợn, nhưng đó là ưu tiên số một của tôi vì… khỏi phải tốn phí. Nhà xác là căn phòng 4m x 10m, nằm ở khu giảng đường chữ I, dùng để giữ thi thể khi sinh viên qua đời. Khu vực này vắng vẻ, cây tràm bông vàng mọc thành rừng trên diện tích 64 ha, càng khiến nơi đây lạnh lẽo, hoang vu. Nhưng với tôi, đó lại là một mái ấm, vì ở tách biệt ký túc xá, tôi đi sớm về khuya cũng chẳng ai kiểm điểm.
Ban đầu, vài bạn ở chung nhưng ngủ hay bị “bóng đè” nên lần lượt bỏ đi. Cuối cùng chỉ còn tôi trụ lại, cho đến khi việc kiếm tiền thuận lợi hơn.
Tôi làm đủ nghề để sống. Nỗi lo lớn nhất không phải thi rớt, mà là cái bụng đói. May mắn thay, tôi có chứng chỉ tiếng Pháp trình độ B, nên nghề chính vẫn là dạy kèm. Học trò giới thiệu học trò, tôi nhận nhiều mối rồi chia lại cho bạn bè - đặc biệt các lớp tiếng Pháp có thù lao cao hơn.
Trong số học viên của tôi có chị Vinh – một nghệ sĩ piano tài năng, dạy piano bằng tiếng Anh nhưng muốn học thêm tiếng Pháp để sang Pháp định cư. Chị là con gái út của nhà văn Trần Công Tấn, ông nói tiếng Pháp như gió. Việc tôi dạy chị chẳng khác nào “muối bỏ biển”, nhưng mỗi buổi học, chị vẫn ân cần gửi phí 50,000 đồng, kèm ổ bánh mì ngọt và hộp sữa tươi. Chỉ riêng chị đã mang lại cho tôi 600,000 đồng mỗi tháng – đủ để đóng học phí một học kỳ. Chúng tôi giữ liên lạc suốt mấy chục năm. Nay chị sống ở Pháp, mỗi lần về Việt Nam, tôi lại ghé thăm căn nhà xưa, nơi chúng tôi từng cùng nhau học tiếng Pháp theo kiểu "được được, mất mất, nhưng đầy tình nghĩa, lúc cơ hàn.
Ngoài ra, tôi được Thầy Đức - Trưởng phòng Hành chánh, Vật tư nhà trường, ký hợp đồng khoán trọn gói 500,000 đồng/ tháng cho việc chuyên viết các bảng biểu, cắt dán băng-rôn, chuẩn bị hội trường cho các chương trình hội họp, tiếp khách nhà trường.
Không dừng lại ở đó, tôi còn lập “Trung tâm gia sư” ở Thủ Đức, đặt văn phòng đối diện Đại học Sư phạm Kỹ thuật nhờ một người anh tốt bụng – giám đốc Công ty Bảo hiểm Bảo Minh – cho mượn phòng nhỏ có điện thoại bàn để giao dịch. Cùng với tôi còn có anh Tân và bạn Cường, sinh viên khoa Thủy sản K18. Từ đây, chúng tôi giới thiệu hàng loạt mối dạy cho sinh viên khó khăn. Trong đó có em Điệp, người Bình Thuận, từ cảnh khó khăn, đã trở thành ông chủ giàu có trong ngành sản xuất thuốc và thức ăn cho tôm cá.
Tôi còn lập “đội cơ động sinh viên” chuyên nhận các hợp đồng sơn cửa, sửa bàn ghế, cắt tỉa cây, đào mương, dọn cỏ… Công việc do thầy Đức và thầy Tân tin tưởng giao phó. Là đội trưởng, hễ có việc làm, tôi đi gõ cửa từng phòng gọi sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đi làm. Nhờ đó, nhiều sinh viên nghèo có thêm nguồn sống.
Nhờ tích hợp nhiều công việc như vậy, nên tiền bạc dần dư dả hơn, không còn cảnh chật vật và khủng hoảng tài chính như những tháng đầu của năm thứ nhứt.
Tôi nhớ như in, vô học năm đầu tiên, tiền bạc bứt bí. Một lần đang thi giữa chừng thì bị giám thị xách cổ áo kéo ra khỏi phòng vì chưa đóng học phí. Chuyện là tôi bí quá, tôi xin biên lai của anh Phước ở Văn phòng Đoàn, ghi số tiền cho khớp với học phí, rồi nộp vào giáo vụ để được vào phòng thi. Nào ngờ, họ kiểm tra phần mềm kế toán, phát hiện tiền chưa vô máy chủ, liền sang phòng thi lôi tôi ra như tội phạm.
Bị đưa lên phòng giáo vụ, tôi giải thích:
- Em chưa chuẩn bị đủ tiền đóng học phí vì các mối dạy kèm chưa
trả. Xin cho em thi, rồi cuối tháng sẽ đóng đủ. Nếu không đóng, cứ giữ kết quả thi của em lại.
May thay, thầy Bùi Cách Tuyến xuất hiện – lúc ấy là phó hiệu trưởng
– biết chuyện, nên mở hào bao 600,000 đồng cho tôi mượn để đóng ngay cho giáo vụ. Xong, tôi tiếp tục vào phòng thi. Khi nhận được tiền dạy kèm, tôi mang trả lại thầy - Những tháng đầu của sinh viên năm nhứt muôn vàn bứt bí. Tưởng chừng không thể vượt qua.
Sau này, khi thành đạt, tôi thường quay lại Trường tặng cho Khoa - nơi tôi học 50 triệu đồng để giúp sinh viên vượt khó, như một cách tiếp sức cho đàn em. Tôi cũng hay giúp đóng học phí cho các sinh viên quá khó khăn, không đủ tiền đóng học phí.
Năm năm học đại học, năm cái Tết tôi không về quê. Với tôi, Tết là thời gian bận rộn: tổ chức việc làm thêm cho sinh viên ở lại, nấu bánh chưng, bánh tét, đón giao thừa như một gia đình lớn.
Nhiều bạn ở lại vì không đủ tiền về, hoặc sợ về rồi lại làm khổ cha mẹ khi phải vay mượn cho học kỳ mới. Tôi cũng vậy, nên nén niềm vui riêng để lo cho tương lai.
Quá trình tự lập ấy giúp tôi mạnh mẽ hơn, trở thành chỗ dựa cho nhiều bạn cùng cảnh ngộ. Tôi luôn tìm việc cho họ – từ các mối dạy kèm đến những công việc “thợ đụng” từ phòng vật tư hay hành chính của trường. Khi đã khá giả hơn, tôi thuê phòng riêng ở Thủ Đức để tiện đi làm và học, nhường lại “căn nhà xác” cho những sinh viên khó khăn khác.
8.3 Thăng trầm cùng đời sống Sinh viên
Nhìn lại cuộc đời mình, nhiều khi tôi bật cười một mình. Bởi số đông không thể nào đoán được hoàn cảnh thật sự của tôi. Không ai biết tôi giàu hay nghèo, dư dả hay thiếu thốn. Có lúc người ta thấy tôi hớt tóc miễn phí cho sinh viên khác, có lúc lại thấy tôi ở lại ký túc xá dịp Tết, giữ rương và đồ đạc cho bạn bè về quê ăn Tết. Lúc khác, tôi xuất hiện trên sân khấu, cầm micro dẫn văn nghệ, hay ôm cây đàn guitar ngồi quây quần với bạn bè, chẳng khác gì một cậu ấm nhà khá giả. Nhưng rồi, cũng chính tôi lại lội mương dọn rác thải từ ký túc xá đổ ra, hay treo băng rôn, viết bảng thông báo cho những chương trình họp hành, biểu diễn của trường.
Giàu có thì làm thêm để làm gì? Nghèo khó thì sao lại làm miễn phí?
Một lần, đang thiu thiu ngủ trưa, tôi được phát một tờ giấy mời lĩnh tiền T700.000. Từ trước đến nay chưa từng có ai gửi tiền cho mình, tôi mừng thầm: “Chẳng lẽ là bảy trăm ngàn thật sao? Gần bằng hai chỉ vàng chứ ít gì!” Tôi gác tay lên trán, cố đoán xem ai có thể gửi số tiền lớn như vậy. Ba tôi thì không thể, vì ông đã quá khó khăn, tuổi già sức yếu. Bà con họ hàng? Không. Dì ở Mỹ? Cũng không. Từ ngày mẹ mất, gần như cậu dì không mấy khi liên lạc. Nghĩ mãi vẫn chẳng ra.
Trong niềm vui lâng lâng, tôi liền đãi cả phòng một bữa cơm “thịt xường hai lát”, cà phê sữa và thêm vài điếu thuốc Chuông Vàng, như một bữa tiệc nhỏ “ăn mừng vận may”.
Chiều hôm ấy, tôi đạp xe thật nhanh ra Bưu điện Thủ Đức, trình giấy lĩnh tiền. Nhân viên đưa tôi một lá thư. Chờ mãi chẳng thấy tiền, tôi hỏi
- Thưa cô, tiền của con có chưa ạ?
- Tiền gì đâu con, cô đưa thư cho con rồi đó!
- Ủa, chỉ có thư thôi sao? Giấy của con ghi lĩnh tiền bảy trăm ngàn
(Xem tiếp tuần tới)